Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng bởi giới đầu tư kỳ vọng thỏa thuận thương mại Giai đoạn 1 giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ giúp đẩy tăng nhu cầu dầu mỏ của 2 quốc gia này đồng thời thúc đẩy kinh tế thế giới tăng trưởng mạnh mẽ trở lại.
Cuối phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York tăng 14 US cent (0,2%) lên 60,21 USD/thùng, trong khi dầu Brent trên sàn London tăng 12 US cent (0,2%) lên 65,34 USD/thùng. Những mức giá này gần sát mức cao nhất của 3 tháng đạt được trong phiên giao dịch liền trước.
Ngày 13/12/2019, Washington và Bắc Kinh tuyên bố đạt được thỏa thuận thương mại "Giai đoạn 1". Theo đó, Trung Quốc sẽ tăng đáng kể lượng nông sản mua của Mỹ, lên 50 tỷ USD trong năm 2020, gấp đôi mức đã nhập trong năm 2017, đồng thời mở cửa các ngành dịch vụ tài chính và ban hành các biện pháp bảo vệ sở hữu trí tuệ mới. Đổi lại, Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ hủy việc áp thuế 15% lên 160 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc lẽ ra sẽ bắt đầu từ ngày 15/12/2019.
Chuyên gia phân tích Phil Flynn từ Tập đoàn Price Futures, có trụ sở tại Chicago (Mỹ) cho biết, tiến bộ trong đàm phán thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ dầu thô, nhưng thị trường vẫn đang chờ đợi những tác động tích cực cụ thể của thỏa thuận này. Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer ngày 15/12 cho biết thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung "Giai đoạn 1" sẽ tăng gần gấp đôi lượng hàng hóa Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc trong hai năm tiếp theo và thỏa thuận này đã "hoàn tất" mặc dù vẫn cần được dịch và cân nhắc từ ngữ trong văn bản thỏa thuận.
Ngoài ra, giá dầu đi lên một phần cũng nhờ vào các số liệu kinh tế mới nhất của Trung Quốc cho thấy sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ nước này trong tháng 11/2019 đều tăng trưởng nhanh hơn dự báo. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc dự báo sẽ chậm lại trong những năm tới. Chính phủ Trung Quốc có khả năng đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6% năm 2020, giảm từ mức 6-6,5% năm 2019.
Với mặt hàng than, giá than luyện cốc trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) phiên vừa qua tăng 1,1% lên 1.245 CNY/tấn, trong khi than cốc giảm 1% xuống 1.826 CNY/tấn.
Sản lượng than của Trung Quốc trong tháng 11/2019 tăng 4,5% so với cùng tháng năm ngoái, đạt 334,06 triệu tấn, đưa tổng sản lượng trong 11 tháng đầu năm lên 3,41 tỷ tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Sản lượng than cốc –loại dùng trong sản xuất thép - tháng 11/2019 tăng 4,9% lên 38,63 triệu tấn, cộng dồn 11 tháng đầu năm tăng 5,9% lên 433,28 triệu tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng ổn định trong phiên vừa qua, giữa bối cảnh đồng USD đi xuống và giới đầu tư chưa biết thông tin rõ ràng về nội dung thỏa thuận Giai đoạn 1 giữa Mỹ và Trung Quốc.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay vững ở mức 1.476,19 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2020 cũng vững ở mức 1.480,50 USD/ounce.
Việc Mỹ và Trung Quốc ký thỏa thuận Giai đoạn 1 đã đẩy chứng khoán Phố Wall tăng lên mức cao kỷ lục mới, song thỏa thuận ban đầu được chờ đợi này không thể kích hoạt đợt bán tháo mạnh nào đối với vàng. Chuyên gia phân tích thị trường Han Tan thuộc FXTM nhận định do vẫn còn những lo ngại về việc thỏa thuận này, vì vậy nhìn chung giá vàng vẫn được giữ ở mức tương đối cao.
Bên cạnh đó, cuộc chiến thương mại kéo dài 17 tháng qua đã thổi bùng lo ngại kinh tế kinh tế toàn cầu sụt giảm, qua đó thúc đẩy các ngân hàng trung ương lớn nới lỏng chính sách tiền tệ.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 2,4% lên 1.977,28 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức cao kỷ lục mới là 1.991,38 USD/ounce; bạch kim tăng nhẹ 0,1% lên 928,93 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 0,7% lên 17,05 USD/ounce.
Giá palađi đã tăng từ nhiều tháng nay do nguồn cung thiếu hụt, trong khi nguồn cung bạch kim vẫn dư thừa. Tuy nhiên, Goldman Sachs cho biết, sẽ không có hiện tượng thay thế palađi bằng bạch kim nếu chưa xảy ra tình trạng thiếu palađi physical nghiêm trọng gây ra những vấn đề trong ngành sản xuất ô tô, buộc các nhà sản xuất ô tô phải đầu tư tốn kém để thực hiện việc chuyển đổi từ sử dụng palađi sang bạch kim. Theo Goldman Sachs, từ nay đến lúc đó, giá palađi sẽ còn tiếp tục tăng.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản hầu hết tăng do lạc quan vào thỏa thuận thương mại Giai đoạn 1 giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng giá sẽ khó tăng hơn nữa trước khi bước sang năm mới.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,1% lên 6.199 USD/tấn; nhôm tăng 0,6% lên 1.778 USD/tấn, nickel tăng 0,2% lên 14.200 USD/tấn trong khi kẽm tăng 1,7% lên 2.291 USD/tấn.
Sản lượng nhôm của Trung Quốc trong tháng 11/2019 tăng 0,6% so với tháng trước đó, đạt 2,9 triệu tấn; lượng nhôm lưu kho trên sàn London đã tăng 45.074 tấn lên 1.309.000 tấn, mức cao nhất kể từ tháng 2/2017.
Giá sắt và thép trên thị trường Trung Quốc phiên vừa qua đều giảm. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,8% xuống 646 CNY/tấn, trước đó cùng phiên có lúc giá giảm 1,6% xuống 641 CNY (91,07 USD)/tấn. Tỷ lệ sử dụng công suất sản xuất của các nhà máy giảm xuống và những số liệu kinh tế vừa công bố gây lo ngại về triển vọng nhu cầu đối với mặt hàng này đã khiến giá đi xuống. Tỷ lệ sử dụng công suất sản xuất của 163 nhà máy trên toàn Trung Quốc đã giảm xuống 65,88% trong tuần vừa qua, cho thấy tiêu thụ nguyên liệu thép đang chậm lại.
Đối với nhóm thép, giá thép cây kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Thượng Hải cũng giảm 1,3% xuống 3.480 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 1,2% xuống 3.708 CNY/tấn.
Số liệu của Cơ quan thống kê Trung Quốc cho thấy sản lượng thép thô của nước này trong tháng 11/2019 giảm xuống 80,29 triệu tấn, so với 81,55 triệu tấn của tháng liền trước. Đầu tư gài sản cố định của Trung Quốc cũng không có dấu hiệu cải thiện khi chỉ tăng 5,2% trong giai đoạn tháng 1-11/2019, mức tăng thấp nhất trong vòng nhiều thập kỷ.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 6,1% (8,05 US cent) lên 1,3895 USD/lb, song vẫn thấp hơn mức cao nhất kể từ tháng 9/2017 của phiên liền trước (1,403 USD/ounce). Arabica đã tăng giá hơn 40% kể từ giữa tháng 10/2019 do dự báo nguồn cung niên vụ 2019/20 sẽ thiếu hụt. Lượng arabica lưu kho tại sàn New York đã giảm từ 2,5 triệu tấn hồi tháng 3/2019 xuống khoảng 2 triệu tấn hiện nay, càng thúc đẩy nhiều quỹ đầu tư mua vào. Trong khi đó, robusta tăng trong phiên vừa qua, với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 33 USD (2,3%) lên 1.450 USD/tấn.
Giá đường giảm do các quỹ hàng hóa giảm tốc độ mua vào sau khi giá đạt mức cao nhất hơn 1 năm vào tuần trước. Cuối phiên giao dịch, đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1,6% (21 US cent) xuống 13,29 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 1% (3,6 USD) xuống 351,7 USD/tấn.
Dự báo thế giới sẽ thiếu hụt đường trong niên vụ 2019/20 và thị trường dầu mỏ khởi sắc sau khi Mỹ và Trung Quốc thông báo đạt được thỏa thuận thương mại bước đầu đã giúp giá đường tăng mạnh trong phiên cuối tuần trước (13/12/2019). Tuy nhiên, Sucden Financial nhận định giá đường thô sẽ khó có thể chạm tới ngưỡng 14 US cent/lb.
Giá cao su trong phiên vừa qua giảm ở cả thị trường Tokyo và Thượng Hải. Trên sàn Tokyo, cao su kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 1,2 JPY (0,011 USD) xuống 199,8 JPY/kg; trong khi trên sàn Thượng Hải, cao su cùng kỳ hạn giảm 175 CNY (24,86 USD) xuống 13.090 CNY/tấn, loại STR20 của Trung Quốc giá giảm 265 CNY xuống 10.925 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

60,22

+0,15

+0,25%

Dầu Brent

USD/thùng

65,33

+0,11

+0,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.290,00

+360,00

+0,88%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,35

+0,06

+2,48%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

166,36

+0,04

+0,02%

Dầu đốt

US cent/gallon

200,42

+1,78

+0,90%

Dầu khí

USD/tấn

606,25

+11,00

+1,85%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.160,00

+290,00

+0,50%

Vàng New York

USD/ounce

1.480,40

-0,80

-0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.194,00

+10,00

+0,19%

Bạc New York

USD/ounce

17,10

+0,08

+0,49%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,00

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

929,80

+0,26

+0,03%

Palađi

USD/ounce

1.979,12

-0,11

-0,01%

Đồng New York

US cent/lb

280,80

+2,70

+0,97%

Đồng LME

USD/tấn

6.130,00

-26,00

-0,42%

Nhôm LME

USD/tấn

1.768,00

-7,00

-0,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.253,00

-10,00

-0,44%

Thiếc LME

USD/tấn

17.225,00

-25,00

-0,14%

Ngô

US cent/bushel

388,00

+7,00

+1,84%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

549,75

+17,25

+3,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

307,50

+10,25

+3,45%

Gạo thô

USD/cwt

12,61

+0,09

+0,72%

Đậu tương

US cent/bushel

936,00

+14,50

+1,57%

Khô đậu tương

USD/tấn

305,80

+4,50

+1,49%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,43

+0,56

+1,70%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

470,90

+1,00

+0,21%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.545,00

-27,00

-1,05%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

138,95

+8,05

+6,15%

Đường thô

US cent/lb

13,29

-0,21

-1,56%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,15

+0,80

+0,82%

Bông

US cent/lb

66,97

+0,17

+0,25%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

410,80

+6,20

+1,53%

Cao su TOCOM

JPY/kg

199,40

-0,40

-0,20%

Ethanol CME

USD/gallon

1,39

+0,02

+1,61%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg