Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm sau khi số liệu cho thấy tồn trữ dầu của Mỹ giảm ít hơn dự báo.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giảm 10 US cent xuống còn 71,62 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 29 UScent xuống 63,76 USD/thùng. Trong phiên, có thời điểm dầu Brent đạt mức cao nhất trong năm 2019 là 72,27 USD/thùng.
Số liệu chính thức công bố ngày 17/4/2019 của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy lượng dầu dự trữ của nước này giảm 1,4 triệu thùng, chỉ bằng một nửa con số mà API công bố.
Tuy nhiên, Chuyên gia Stephen Innes của Công ty SPI Asset Management cho biết nhu cầu dầu đã nhận được sự hỗ trợ từ các số liệu kinh tế của Trung Quốc cho thấy giá dầu sẽ tiếp tục đi lên nhờ tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu của giới đầu tư đối với các tài sản rủi ro đều cải thiện.
Theo số liệu chính thức, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng 6,4% trong quý đầu tiên của năm nay, bất chấp những đồn đoán trước đó về khả năng giảm tốc, giữa lúc các thị trường toàn cầu cũng được trấn an khi Mỹ và Trung Quốc đang tiến gần đến một thỏa thuận.
Bên cạnh đó, lượng nguyên liệu đầu vào cho hoạt động lọc dầu ở Trung Quốc, nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế giới, đã tăng 3,2% trong tháng Ba vừa qua so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2016, do sản lượng đạt gần mức cao kỷ lục và dự báo nhu cầu sưởi ấm trong 2 tuần tới suy giảm, đẩy dự trữ tăng trở lại khỏi mức thấp bất thường. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn New York giảm 5,5 US cent tương đương 2,1% xuống 2,517 USD/mBTU, thấp nhất kể từ ngày 8/6/2016.
Giá ethanol chưa khan nước (hydrous ethanol) ở khu vực trung tâm miền Nam Brazil tăng vọt hơn 18% trong 11 ngày đầu tháng 4 lên mức cao kỉ lục 2.350 real/m3 (tương đương 604 USD/ m3) do mưa lớn trong khu vực. Cùng thời gian đó, giá ethanol khan nước (anhydrous ethanol) tăng 23,5% lên mức kỉ lục 2.285 real/mét khối so với cùng kì năm ngoái.
Trong khi đó, giá xăng trung bình của Petrobras đã tăng lên 1.9354 USD/lít hôm 12/4, ghi nhận tăng 5,6% trong tháng 4.
Giá ethanol khan dễ bị ảnh hưởng bởi bất kì sự chậm trễ nào trong sản xuất do chi phí sản xuất ethanol khan trong điều kiện ẩm ướt cao hơn vì làm cho hàm lượng sucrose trong mía không còn được như ban đầu.
Ngoài ra, khối lượng ethanol khan xuất khẩu trong tháng 3 ở mức cao nhất kể từ năm 2016 do tỉ giá của đồng real so với USD giảm và giá ethanol ở Mỹ tăng cao vì việc vận chuyển bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Trung Tây.
Mưa lớn làm cản trở hoạt động nghiền mía ở trung tâm miền Nam Brazil và giá xăng dầu trung bình của Petrobras tăng là những yếu tố chi phối nhất ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch trong tháng này.
Lượng dự trữ ethanol tại các kho đang ở mức tối thiểu. Những trận mưa lớn được dự báo diễn ra trong vài ngày tới nên các nhà phân phối đang ráo riết mua ethanol từ các nhà máy để đảm bảo nguồn cung vì không có cách nào sản xuất ethanol trong những trận mưa lớn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao dịch ở gần mức thấp nhất trong vòng 4,5 tháng ghi nhận được trong phiên trước đó, trong bối cảnh các số liệu kinh tế từ Trung Quốc đã làm dịu bớt những lo ngại về tăng trưởng toàn cầu, qua đó thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến những tài sản mang tính rủi ro.
Giá vàng giao ngay được giao dịch ở mức 1.275,77 USD/ounce, sau khi giảm 1,2% trong phiên 16/4 xuống còn 1.272,70 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 27/12/2018. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn giao tháng 6/2019 giảm 0,4 USD (0,03%) xuống 1.276,80 USD/ounce. Giá vàng đã để mất hơn 5% kể từ khi đạt mức “đỉnh” của 10 tháng hồi tháng Hai vừa qua.
Số liệu mới công bố cho thấy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong quý đầu tiên của năm 2019 vẫn đứng vững ở mức 6,4%, vượt mức dự báo tăng 6,3% mà các nhà phân tích đưa ra trước đó.
Về mặt kỹ thuật, các nhà giao dịch và giới phân tích nhận định việc giá vàng trượt xuống dưới ngưỡng hỗ trợ chính, bao gồm cả mức trung bình của 100 ngày và 50 ngày, đã phát đi tín hiệu về xu hướng tiếp tục giảm của giá kim loại quý này.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,5% lên 15,04 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngay tăng 1,1% lên 886,35 USD/ounce, còn giá palađi cũng tăng 1,1% lên 1.363,76 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đạt mức cao nhất 9 tháng, do tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cao hơn so với dự kiến, thúc đẩy kỳ vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới tăng. Giá đồng kỳ hạn trên sàn LME ở London tăng 0,9% lên 6.556 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 6.608,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 3/7/2018.
Nền kinh tế Trung Quốc trong quý 1/2019 tăng 6,4% so với dự báo tăng 6,3% mà giới phân tích đưa ra trước đó, do sản lượng công nghiệp tăng mạnh và nhu cầu tiêu dùng cho thấy dấu hiệu cải thiện.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm do công ty khai thác quặng sắt Vale Brazil đang chuẩn bị nối lại hoạt động sản xuất tại mỏ Brucutu, mặc dù các đối thủ Australia cắt giảm sản lượng trong năm nay.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên giảm 3,8% xuống 621 CNY (92,86 USD)/tấn, sau khi giảm mạnh 4,7% trong đầu phiên giao dịch. Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 0,2% xuống 3.795 CNY/tấn, trong bối cảnh số liệu GDP trong quý 1/2019 ổn định ở mức 6,4% .
Nguồn cung sẽ được nới lỏng khi Vale cho biết sẽ nối lại hoạt động sản xuất tại mỏ khai thác quặng sắt lớn nhất bang Minas Gerais trong vòng 72 giờ. Mỏ này có công suất hàng năm đạt 30 triệu tấn, đã đóng cửa kể từ đầu tháng 2/2019 sau vụ vỡ đập vào cuối tháng 1/2019.
Nhà phân tích thuộc CITIC Futures, Mandarin cho biết: "Xuất khẩu quặng sắt từ Australia và Brazil tăng trong 2 tuần qua, gây áp lực giá. Tuy nhiên nhu cầu từ các nhà máy thép Trung Quốc trong tháng 4/2019 vẫn tăng, do các hạn chế trong mùa đông tại khu vực phía bắc Trung Quốc được nới lỏng".
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giảm xuống mức thấp nhất 13 năm rưỡi do nguồn cung dồi dào và đồng real của Brazil yếu đi. Arabica giao tháng 7/2019 giảm 3,3 US cent tương đương 3,6% xuống 89,65 UScent/lb, sau khi có lúc chỉ 89 UScent. Tính từ đầu năm tới nay arabica đã giảm 15% giá trị. Trong khi đó robusta giao tháng 7/2019 cũng giảm 19 USD tương đương 1,3% xuống 1.412 USD/tấn.
Giá đường cũng giảm trong phiên vừa qua, với đường thô giao tháng 5/2019 giảm 0,16 UScent tương đương 1,3% xuống 12,35 UScent/lb, trong khi đường trắng giao tháng 8/2019 giảm 3,5 USD tương đương 1% xuống 332,4 USD/tấn.
Giá lúa mì tại Mỹ tăng khỏi mức thấp nhất 1 tháng trong phiên trước đó. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 3-3/4 US cent lên 4,52-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 13/3/2019 trong ngày thứ ba (16/4/2019). Giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago tăng 4 US cent lên 4,49 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago giảm 1/2 US cent xuống 3,58-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn trên sàn Chicago giảm 6 US cent xuống 8,82 USD/bushel.
Thị trường chờ đợi những dấu hiệu mới trong tiến triển các cuộc đàm phán thương mại với Mỹ - nước mua đậu tương Trung Quốc lớn nhất thế giới. Xuất khẩu đậu tương của Mỹ sang Trung Quốc năm 2018 giảm, sau khi Bắc Kinh áp đặt thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng lên mức cao nhất 1 tuần, do đồng ringgit suy yếu trở lại.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 1% lên 2.194 ringgit (529,7 USD)/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.199 ringgit/tấn, cao nhất 1 tuần.
Giá cao su tại Tokyo tăng sau số liệu từ nước mua hàng đầu – Trung Quốc – cho thấy rằng, tăng trưởng kinh tế của nước này trong quý 1/2019 duy trì ổn định. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn TOCOM tăng 0,4 JPY tương đương 0,2% lên 191,5 JPY (1,71 USD)/kg. Trong khi giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,2% xuống 172,2 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 95 CNY xuống 11.645 CNY (1.741 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

63,76

-0,29

-0,35%

Dầu Brent

USD/thùng

71,62

-0,10

-0,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

47.180,00

-500,00

-1,05%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,51

-0,01

-0,36%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

204,08

-0,10

-0,05%

Dầu đốt

US cent/gallon

206,77

-0,15

-0,07%

Dầu khí

USD/tấn

634,25

-2,75

-0,43%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

64.750,00

-420,00

-0,64%

Vàng New York

USD/ounce

1.276,00

-0,80

-0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.571,00

-22,00

-0,48%

Bạc New York

USD/ounce

14,94

0,00

-0,03%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,10

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

886,30

-2,92

-0,33%

Palađi

USD/ounce

1.392,55

-5,05

-0,36%

Đồng New York

US cent/lb

296,50

-0,85

-0,29%

Đồng LME

USD/tấn

6.556,00

+61,00

+0,94%

Nhôm LME

USD/tấn

1.850,00

-5,50

-0,30%

Kẽm LME

USD/tấn

2.819,50

+9,50

+0,34%

Thiếc LME

USD/tấn

20.405,00

-95,00

-0,46%

Ngô

US cent/bushel

366,50

-0,50

-0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

450,25

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

304,00

+4,25

+1,42%

Gạo thô

USD/cwt

10,43

-0,05

-0,52%

Đậu tương

US cent/bushel

893,25

+0,75

+0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

307,60

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,78

0,00

0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

459,10

+0,40

+0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.403,00

+57,00

+2,43%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

89,65

-3,30

-3,55%

Đường thô

US cent/lb

12,53

-0,14

-1,10%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

111,65

+2,65

+2,43%

Bông

US cent/lb

78,92

-0,04

-0,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

338,90

+3,10

+0,92%

Cao su TOCOM

JPY/kg

187,90

-3,60

-1,88%

Ethanol CME

USD/gallon

1,33

0,00

-0,38%

Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF

 

 

Nguồn: Vinanet