Trên thị trường năng lượng, giá dầu Brent tăng do đường ống dẫn dầu biển Bắc bị rò rỉ, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm nhẹ bởi tâm lý lo ngại về xu hướng tăng sản lượng khai thác của Mỹ.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu Brent giao tháng 2/2018 tăng 0,18 USD lên 63,41 USD/thùng tại London trong khi dầu WTI giao tháng 1/2018 giảm 0,14 USD xuống 57,16 USD/thùng.
Đầu phiên này, dầu Brent đã có lúc được giao dịch ở mức 63,91 USD/thùng, tuy nhiên đã giảm xuống sau khi nhà điều hành đường ống dẫn dầu biển Bắc, Ineos cho biết vết nứt trên đường ống đã không lan rộng. Đường ống dẫn dầu biển Bắc bị đóng cửa để khắc phục sự cố rò rỉ và cuộc đình công trong ngành năng lượng ở Nigeria), thì giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm nhẹ xuất phát từ tâm lý lo ngại về xu hướng tăng sản lượng khai thác của Mỹ.
Trong khi đó, sản lượng khai thác dầu mỏ của Mỹ đã tăng 16% kể từ giữa năm 2016, đạt 9,8 triệu thùng/ngày, gần với mức của các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu như Saudi Arabia với 10 triệu thùng/ngày và Nga (11 triệu thùng/ngày). Điều này đang làm suy yếu các nỗ lực tái cân bằng thị trường của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và một số nước.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo thị trường dầu mỏ toàn cầu sẽ dư cung khoảng 200.000 thùng/ngày trong nửa đầu năm 2018. Còn số liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cũng cho thấy con số dư cung tương tự trong nửa đầu năm sau và mức dư cung khoảng 167.000 thùng/ngày trong cả năm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng. Vàng giao ngay tăng 0,53% lên 1.261,87 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 2/2018 tăng 8 USD, hay 0,6% lên 1.265,50 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD đo sức mạnh của đồng USD so với giỏ các đồng tiền chủ chốt khác giảm do những quan ngại gia tăng rằng liệu kế hoạch cải cách thuế của Mỹ có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế hay không. Nhiều nghị sỹ Mỹ dự đoán quốc hội nước này sẽ thông qua dự luật cải cách thuế trong tuần này.
Ông Rob Haworth, chiến lược gia về đầu tư của Ngân hàng Wealth Management (Mỹ) cho rằng dự luật nói trên được thông qua sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo dư địa để Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bình thường hóa chính sách lãi suất, từ đó đẩy giá vàng đi xuống.
Cùng phiên, giá bạc tăng 0,4% lên 16,12 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 1,8% và được giao dịch ở mức 909,25 USD/ounce.
Bất chấp đà tăng của thị trường chứng khoán và giá trị của đồng tiền ảo bitcoin cũng như các đợt nâng lãi suất tại Mỹ, giá vàng tính từ đầu năm tới nay vẫn tăng hơn 9%. Theo báo cáo mới công bố của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), giá kim loại quý này có nhiều lý do để củng cố đà tăng trong năm tới.
Các chuyên gia cho rằng với vai trò là nơi trú ẩn an toàn, giá vàng được hưởng lợi từ tình hình bất ổn chính trị tại bán đảo Triều Tiên, khu vực Trung Đông và sự thiếu chắc chắn xung quanh tiến trình rời Liên minh châu Âu (EU) của nước Anh, cũng như các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các thành phố lớn của châu Âu.
Chiến lược gia về thị trường, John Reade thuộc WGC nhận định, vàng đã có một năm tăng giá ấn tượng, giữa bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong lộ trình nâng lãi suất và chứng khoán đi lên. Ông Reade cho rằng chính sách tiền tệ cũng sẽ là một nhân tố định hướng nhu cầu vàng.
Theo ông Reade, trước mối lo về tình hình lạm phát vẫn ảm đạm trên quy mô toàn cầu, tiến trình thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ chậm lại.
Gần đây, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng trung ương Anh (BoE) và Ngân hàng trung ương Thụy Sỹ đã không “theo gót” Mỹ và vẫn giữ nguyên lãi suất chủ chốt.
Theo thống kê của WGC, nhờ một loạt lễ hội truyền thống, nhu cầu vàng trang sức của Trung Quốc tăng 13%, lên 159,3 tấn trong quý 3/2017, chấm dứt chuỗi 10 quý giảm liên tiếp.
Wang Lixin, cán bộ quản lý cao cấp của WGC, cho rằng thị trường Trung Quốc đóng góp lớn nhất cho sự tăng trưởng nhu cầu vàng thỏi và vàng xu trong quý 3 vừa qua.
Trên thị trường nông sản, giá đường tăng, với đường thô giao tháng 3 tăng 0,1 US cent tương đương 0,7% lên 13,76 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 1,5 USD tương đương 0,4% lên 362 USD/tấn.
Cà phê cũng tăng giá, với arabica giao tháng 3 tăng 1,15 US cent tương đương 1% lên 1,219 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn tăng 3 USD tương đương 0,2% lên 1.726 USD/tấn.
Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2017/18 sẽ vượt nhu cầu.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
57,16
|
+0,14
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,41
|
+0,18
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
41.720,00
|
-30,00
|
-0,07%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,75
|
+0,01
|
+0,26%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
167,18
|
-0,07
|
-0,04%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
192,40
|
-0,12
|
-0,06%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
566,50
|
-2,50
|
-0,44%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
56.660,00
|
-140,00
|
-0,25%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.264,10
|
+1,40
|
+0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.560,00
|
+20,00
|
+0,44%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,15
|
-0,05
|
-0,34%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,00
|
+0,40
|
+0,68%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
909,10
|
-2,70
|
-0,30%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.024,58
|
+2,72
|
+0,27%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
313,25
|
-1,35
|
-0,43%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.905,00
|
+19,00
|
+0,28%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.074,00
|
+8,00
|
+0,39%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.196,00
|
-9,00
|
-0,28%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.350,00
|
+200,00
|
+1,04%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
347,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
420,75
|
+0,25
|
+0,06%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
245,00
|
-6,50
|
-2,58%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,72
|
+0,01
|
+0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
972,50
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
321,80
|
-0,70
|
-0,22%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,25
|
+0,07
|
+0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
498,40
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.922,00
|
+45,00
|
+2,40%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
121,90
|
+1,15
|
+0,95%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,76
|
+0,10
|
+0,73%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
140,95
|
-3,55
|
-2,46%
|
Bông
|
US cent/lb
|
75,20
|
-0,72
|
-0,95%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
434,90
|
+3,00
|
+0,69%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
207,40
|
-1,60
|
-0,77%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,27
|
+0,01
|
+0,55%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg