Trên thị trường năng lượng giá dầu tăng hơn 1% lên mức cao nhất trong năm nay khi giới đầu tư nhận định thị trường sẽ cân bằng vào cuối năm sau chính sách hạn chế xuất khẩu của những nước sản xuất hàng đầu thế giới và việc Mỹ trừng phạt đối với một số thành viên OPEC bao gồm Iran và Venezuela.
Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 63 US cent tương đương 0,95% lên 67,08 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 83 US cent tương đương 1,48% lên 56,92 USD/thùng.
Thị trường lo ngại các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung đã khiến giá dầu giảm trong đầu phiên giao dịch, song thị trường đảo chiều sau các dấu hiệu tiến triển gia tăng và thị trường chứng khoán tăng mạnh.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất khác, bao gồm Nga, đã thỏa thuận giảm nguồn cung dầu thêm 1,2 triệu thùng/ngày từ ngày 1/1/2019. Bộ trưởng Bộ Năng lượng Saudi, Khalid al-Falih cho biết, thị trường dầu sẽ cân bằng vào tháng 4 và sẽ không thiếu nguồn cung khi Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Iran và Venezuela.
Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia Khalid al-Falih mới đây đã bày tỏ tin tưởng rằng thị trường dầu mỏ thế giới sẽ trong trạng thái cân bằng vào tháng Tư năm nay và sẽ không có sự xáo trộn về nguồn cung, bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ nhằm vào Iran và Venezuela. Ông đồng thời khẳng định cam kết cắt giảm sản lượng dầu mỏ giữa Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đối tác, trong đó có Nga, hồi cuối năm ngoái là không thể đảo ngược.
Dự kiến, OPEC và các đối tác sẽ tổ chức cuộc họp tại thủ đô Vienna của Áo trong tháng Tư tới để thảo luận về chính sách sản lượng và đánh giá về khả năng có gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng sau tháng Sáu hay không. Theo Bộ trưởng Falih, cuộc họp tới sẽ là một cột mốc quan trọng của hành trình ổn định thị trường dầu mỏ, trong việc giữ cân bằng giữa nguồn cung và nhu cầu “vàng đen”. Tại cuộc họp sắp tới, Saudi Arabia cũng sẽ tham vấn với các đối tác và xác định một kế hoạch nguồn cung dầu mỏ cho giai đoạn nửa cuối năm 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng rời mức đỉnh trong 10 tháng trước những đồn đoán về triển vọng nâng lãi suất tại Mỹ. Vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.339,56 USD/ounce vào cuối phiên sau khi trong phiên có lúc vọt lên 1.346,73 USD/ounce, cao nhất trong vòng gần 10 tháng; vàng giao sau ở mức 1.347,90 USD/ounce.
Các nhà giao dịch cho biết giá vàng đi xuống sau khi biên bản cuộc họp gần đây của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho thấy kinh tế nước này và thị trường lao động vẫn vững mạnh, làm dấy lên những đồn đoán về khả năng sẽ tăng lãi suất thêm ít nhất một lần trong năm nay. Bên cạnh đó, sự tăng giá của đồng USD cũng gây sức ép đối với giá mặt hàng này.
George Gero, Giám đốc điều hành RBC Wealth Management, nhận định mặc dù thông tin từ Fed đã thúc đẩy hoạt động bán ra vàng trong phiên này, song giá kim loại quý này vẫn có triển vọng tăng tích cực, giữa bối cảnh những lo ngại về tình hình kinh tế chính trị trên toàn cầu sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư mua vào vàng như một "nơi trú ẩn" an toàn.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,8% lên 824 USD/ounce, còn giá bạc tăng 0,6% lên 16,07 USD/ounce. Đáng chú ý phiên này, giá palađi đã lần đầu tiên vượt mốc 1.500 USD/ounce, trước những lo ngại về tình trạng nguồn cung thắt chặt.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đạt mức cao nhất 7 tháng, do thị trường lo ngại về dự trữ ở mức thấp trước nhu cầu mùa vụ tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh, trong khi tâm lý lạc quan về chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng hỗ trợ giá. Giá đồng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,4% lên 6.405 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 10/7/2018, do nhu cầu của Trung Quốc thường tăng trong quý 2 trước khi hoạt động xây dựng gia tăng trong quý 3. Cùng với đó là dự trữ đồng tại London chạm 139.500 tấn, gần mức thấp nhất 10 năm (122.500 tấn) trong đầu tháng 12/2018.
Giá thép tại Trung Quốc giảm, khi các nhà đầu tư vẫn thận trọng về nhu cầu sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 0,9% xuống 3.641 CNY (541,45 USD)/tấn, trong phiên có lúc chạm 3.578 CNY/tấn, thấp nhất 5 tuần. Giá thép cuộn cán nóng kết thúc phiên thay đổi nhẹ ở mức 3.657 CNY/tấn.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên kết thúc chuỗi tăng 3 phiên liên tiếp, giảm 2% xuống 619,5 CNY/tấn.
Các nhà phân tích thuộc Jinrui Futures cho biết: "Sản lượng thép có khả năng tăng cao sau kỳ nghỉ. Và trọng tâm thị trường sẽ chuyển sang sức mạnh nhu cầu từ người tiêu dùng hạ nguồn".
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 5/2019 tăng 0,55 US cent tương đương 0,6% 1,014 USD/lb, sau khi có lúc xuống chỉ 99,85 US cent, thấp nhất kể từ 18/12/2019; robusta tăng 6 USD tương đương 0,4% lên 1.544 USD/tấn.
Ethiopia đặt mục tiêu trong 5 năm tới, sản lượng cà phê tăng gấp 5 lần so với hiện tại. Chính phủ dự báo sản lượng cà phê trong niên vụ cà phê 2018 - 2019 (kéo dài từ tháng 10/2018 đến tháng 9/2019) có thể đạt 600.000 tấn. Con số này được kì vọng sẽ đạt ngưỡng 1,8 triệu tấn trong năm 2024. Trong khi đó, sản lượng cà phê niên vụ 2018 - 2019 không thay đổi nhiều so với năm 2017 - 2018 là 426.000 tấn. Để đạt được mục tiêu này, những cây cà phê già cỗi sẽ được thay thế bằng cây cà phê mới nhằm cải thiện năng suất. Tổng Giám đốc Cơ quan Cà phê và Trà Ethiopia ông Adugna Debella sẽ là người trực tiếp chỉ đạo công tác này. Đồng thời, ông Adugna Debella cho biết thời gian tới sẽ nhắm vào thị trường Đông Á.
Giá đường tăng lên mức cao nhất 3,5 tháng, được thúc đẩy bởi hoạt động mua vào, trong khi giá cà phê tăng trở lại sau khi lần đầu tiên giảm xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 12/2018.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2019 tăng 0,15 US cent tương đương 1,1% lên 13,38 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 13,42 US cent/lb, cao nhất kể từ ngày 5/11/2018. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 90 US cent tương đương 0,3% lên 360 USD/tấn.
Đồng thời, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2019 tăng 0,55 US cent tương đương 0,6% lên 1,014 USD/lb, trong phiên có lúc chạm 99,85 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 18/12/2018. Và giá cà phê giao cùng kỳ hạn tăng 6 USD tương đương 0,4% lên 1.544 USD/tấn.
Giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng, do các thương nhân lo ngại về hoạt động xuất khẩu của Mỹ bị chậm lại, mặc dù cạnh tranh giá trên thị trường toàn cầu. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Chicago giảm 9 US cent xuống 4,8-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 4,75-3/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 12/7/2018.
Giá đậu tương giao tháng 3/2019 tăng 1-3/4 US cent lên 9,02-1/2 USD/bushel. Mặc dù bất ổn là vấn đề cố định, thậm chí cần thiết, trên thị trường hàng hóa, nhưng có lẽ chưa bao giờ lớn như vậy đối với các nhà giao dịch nông nghiệp trong 2019, vì tương lai của thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng. Đàm phán giữa hai quốc gia vẫn đang tiếp diễn, nhưng nếu chúng kéo dài qua thời hạn ngày 1/3, mùa vụ 2019 tại Mỹ và kế hoạch trồng trọt của người nông dân có thể gặp rủi ro.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự kiến công bố kế hoạch trồng trọt vào ngày 29/3, thời điểm bắt đầu thu hoạch vụ đậu nành và ngô năm 2019. Tuy nhiên, vì chưa rõ tình trạng giữa Mỹ và Trung Quốc, sự hữu ích của bản báo cáo này có thể bị giới hạn. Kịch bản tệ nhất sẽ là nông dân Mỹ trồng với khối lượng không tương đương với nhu cầu của thị trường, điều có thể xảy ra trong trường hợp các cuộc đàm phán thương mại kéo dài hết tháng 3 và tháng 4, hoặc lâu hơn.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, được hỗ trợ bởi số liệu xuất khẩu trong 20 ngày đầu tháng 2/2019 của nước này tăng, song sản lượng cao hơn so với dự kiến đã gây áp lực giá.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Bursa tăng 0,1% lên 2.262 rirnggit/tấn, trong đầu phiên chạm 2.252 ringgit/tấn, thấp nhất 3 phiên.
Đồng thời, giá dầu đậu tương kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn Chicago tăng 0,4%, trong khi giá dầu đậu tương kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Đại Liên giảm 0,7%, và giá dầu cọ kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Đại Liên giảm 1,3%.
Giá dầu cọ chịu ảnh hưởng bởi biến động giá dầu đậu tương, khi phải cạnh tranh thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.
Giá cao su tại Tokyo tăng lên mức cao nhất 9 tháng, trong bối cảnh kỳ vọng các nhà sản xuất sẽ hạn chế xuất khẩu và lạc quan về thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung, chấm dứt chiến tranh thương mại kéo dài nhiều tháng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn TOCOM tăng 4 JPY tương đương 2,1% lên 197,5 JPY (1,78 USD)/kg, tăng phiên thứ 3 liên tiếp và lên mức cao nhất kể từ ngày 23/5/2018. Và giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn TOCOM tăng 1,4% lên 166,1 JPY/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 285 CNY lên 12.460 CNY (1.854 USD)/tấn, trong phiên có lúc đạt 12.520 CNY/tấn, cao nhất 4 tháng.
Nhà phân tích Jiong Gu thuộc Yutaka Shoji Co. cho biết: "Sự gia tăng giá cao su gần đây được hỗ trợ bởi kỳ vọng các nước sản xuất có thể thỏa thuận các biện pháp thúc đẩy giá và Trung Quốc – Mỹ sẽ đạt được thỏa thuận".
Giá hàng hóa thế giới

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,92

+0,83

+1,48%

Dầu Brent

USD/thùng

66,94

-0,14

-0,21%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

45.000,00

+310,00

+0,69%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,65

+0,01

+0,46%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

159,75

-0,06

-0,04%

Dầu đốt

US cent/gallon

201,21

-0,62

-0,31%

Dầu khí

USD/tấn

616,75

+0,25

+0,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

60.890,00

+530,00

+0,88%

Vàng New York

USD/ounce

1.341,60

-6,30

-0,47%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.748,00

-23,00

-0,48%

Bạc New York

USD/ounce

16,02

-0,16

-1,00%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,10

+0,10

+0,18%

Bạch kim

USD/ounce

824,77

-2,65

-0,32%

Palađi

USD/ounce

824,77

-2,65

-0,32%

Đồng New York

US cent/lb

290,65

-1,40

-0,48%

Đồng LME

USD/tấn

6.405,00

+86,00

+1,36%

Nhôm LME

USD/tấn

1.868,00

+12,00

+0,65%

Kẽm LME

USD/tấn

2.698,00

+41,00

+1,54%

Thiếc LME

USD/tấn

21.250,00

+90,00

+0,43%

Ngô

US cent/bushel

379,50

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

486,75

+2,50

+0,52%

Lúa mạch

US cent/bushel

276,00

+2,00

+0,73%

Gạo thô

USD/cwt

10,21

+0,04

+0,39%

Đậu tương

US cent/bushel

915,00

-1,00

-0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn

309,00

-0,20

-0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,26

-0,02

-0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

480,00

+0,70

+0,15%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.317,00

-33,00

-1,40%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

101,40

+0,55

+0,55%

Đường thô

US cent/lb

13,38

+0,15

+1,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

120,05

+1,60

+1,35%

Bông

US cent/lb

72,16

-0,03

-0,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

389,00

-8,40

-2,11%

Cao su TOCOM

JPY/kg

195,70

-1,80

-0,91%

Ethanol CME

USD/gallon

1,33

+0,01

+0,99%

Nguồn: VITIC/Bloomberg. Reuters. CafeF