Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm do đồng USD mạnh lên khiến những hàng hóa giao dịch bằng USD như dầu mỏ trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Kết thúc phiên giao dịch, tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 1/2018 đã giảm 0,12 USD xuống còn 57,99 USD/thùng, trong khi tại London giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn giảm 0,23 USD xuống 63,61 USD/thùng.
Chỉ số USD, thước đo giá trị của đồng bạc xanh so với giỏ sáu đồng tiền chủ chốt khác, tăng 0,45% lên 93,318 vào cuối phiên giao dịch.
Trong khi đó, các nhà kinh doanh đang chờ đợi thông tin chi tiết về cuộc họp của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 30/11.
Goldman Sachs nhận định kết quả cuộc họp OPEC tại Vienna cuối tuần này là không rõ ràng dựa vào giá dầu hiện tại và thiếu đồng thuận về việc gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng.
Ngân hàng này cho biết “thiếu vắng sự nhất trí như vậy là do tình trạng không rõ ràng về tiến trình tái cân bằng thị trường dầu mỏ cũng như giá dầu Brent giao dịch ở mức 63 USD/thùng”.
Nga cho biết họ sẽ hỗ trợ việc gia hạn cắt giảm sản lượng cùng với OPEC nhưng đưa ra những tín hiệu trái chiều về khoảng thời gian gia hạn sau khi giá dầu tăng lên khoảng 60 USD/thùng, làm tăng lo sợ rằng thị trường có thể quá thắt chặt và thúc đẩy sự tăng vọt trong sản lượng dầu đá phiến của Mỹ. Nga cần giá dầu cao trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 3/2018. Nhưng các quan chức tại Moscow cho biết họ cũng lo lắng về đồng rúp quá mạnh sẽ phá hoại tính cạnh tranh của nền kinh tế này.
Goldman cho biết “chúng tôi tiếp tục dự kiến sản lượng của OPEC và Nga dần tăng từ tháng 4/2018 trở đi”.
Giá dầu đã tăng trong những tháng gần đây nhờ OPEC, Nga và các nước sản xuất dầu khác cắt giảm sản lượng. Tuy vậy, giá dầu tăng lại khuyến khích các nhà sản xuất dầu ở Mỹ tăng sản lượng “vàng đen”. OPEC và các nước cùng tham gia thỏa thuận cắt giảm sản lượng đã nhất trí gia hạn thỏa thuận này tới tháng 3/2018. Cuộc họp vào ngày 30/11 tới của OPEC dự kiến sẽ thảo luận về chính sách sản lượng và hầu hết các nhà phân tích dự báo các nước sẽ gia hạn thỏa thuận trên.
Lãnh đạo Saudi Arabia muốn giá dầu giao dịch khoảng 60 USD/thùng, do vương quốc này đang chuẩn bị niêm yết công ty dầu mỏ quốc gia Aramco và vẫn đang phải đối phó với tình trạng thâm hụt tài chính lớn.
Một trong những nguồn tin của OPEC cho biết “kịch bản tốt nhất là tái cân bằng thị trường trong quý 3”.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm do USD mạnh lên sau khi ông Jerome Powell, người được đề cử giữ chức Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thay bà Janet Yellen vào nhiệm kỳ tới, tại cuộc điều trần trước Quốc hội Mỹ cho biết Fed có thể sẽ nâng lãi suất vào tháng tới.
Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Mỹ, bởi lãi suất tăng sẽ giúp đồng USD mạnh lên song lại khiến sức hấp dẫn của các tài sản không sinh lời như vàng giảm đáng kể.
Giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống còn 1.292,7 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng giao tháng 12/2017 tăng nhẹ thêm 0,04% lên khép phiên ở mức 1.294,9 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 1% xuống 16,85 USD/ounce, còn giá bạch kim lại tiến thêm 0,1% lên mức 948,2 USD/ounce. Trong khi đó, giá palađi phiên này đã có lúc chạm mức cao nhất kể từ tháng 2/2001 là 1.028,30 USD/ounce, giữa lúc giới đầu tư kỳ vọng rằng nhu cầu của ngành công nghiệp ô tô sẽ đi lên.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm trong khi cà phê robusta hồi phục khỏi mức thấp nhất 17 tháng.
Đường thô giao tháng 3 giá giảm 0,35 US cent tương đương 2,3% lên 15,04 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 5,4 USD tương đương 1,4% xuống 389,40 USD/tấn.
Cà phê robusta giao tháng 1 tăng 23 USD lên 1.743 USD/tấn, sau khi có lúc xuống 1.699 USD, mức thấp nhất trong vòng 17 tháng.
Arabica giao tháng 3 giá tăng 1,65 US cent tương đương 1,3% lên 1,2985 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
11/11
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
57,99
|
-0,12
|
-0,28%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,61
|
-0,23
|
-0,45%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
41.770,00
|
-50,00
|
-0,12%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,13
|
+0,00
|
+0,13%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
176,10
|
-1,10
|
-0,62%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
194,46
|
-0,61
|
-0,31%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
565,25
|
-1,25
|
-0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
56.540,00
|
-50,00
|
-0,09%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.297,40
|
-1,80
|
-0,14%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.630,00
|
+15,00
|
+0,33%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,93
|
+0,01
|
+0,04%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,70
|
-0,30
|
-0,49%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
949,80
|
+0,30
|
+0,03%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.028,85
|
-0,97
|
-0,09%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
310,65
|
+0,80
|
+0,26%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.805,00
|
-137,00
|
-1,97%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.102,50
|
-32,50
|
-1,52%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.158,00
|
-29,00
|
-0,91%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.550,00
|
+25,00
|
+0,13%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
350,00
|
+0,25
|
+0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
430,25
|
+1,00
|
+0,23%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
261,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,31
|
+0,01
|
+0,08%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
992,50
|
-0,50
|
-0,05%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
326,70
|
+0,90
|
+0,28%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,95
|
-0,18
|
-0,53%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
508,40
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.049,00
|
-18,00
|
-0,87%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
129,85
|
+1,65
|
+1,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,04
|
-0,35
|
-2,27%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
165,30
|
-1,50
|
-0,90%
|
Bông
|
US cent/lb
|
72,14
|
+0,72
|
+1,01%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
426,20
|
+10,00
|
+2,40%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
197,90
|
+1,90
|
+0,97%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
-0,01
|
-0,51%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg