Trên thị trường năng lượng, giá dầu thế giới chỉ biến động nhẹ mặc dù Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đối tác có kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 0,6% lên 63,39 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) vững ở 58,43 USD/thùng, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ cuối tháng 9/2019.
Bộ trưởng Dầu mỏ Nga Alexander Novak mới đây cho biết các nước thành viên OPEC cùng các đối tác chủ chốt (OPEC+) đã đề xuất cắt giảm sản lượng dầu thêm 500.000 thùng/ngày trong quý I/2020, nâng tổng khối lượng cắt giảm lên 1,7 triệu thùng/ngày, chiếm 1,7% tổng cung dầu thô toàn cầu.
Kể từ năm 2017, OPEC+ đã nhất trí tự nguyện cắt giảm sản lượng nhằm đối phó với nguồn cung tăng mạnh từ Mỹ. Thỏa thuận cắt giảm sản lượng 1,2 triệu thùng dầu/ngày dự kiến hết hạn vào tháng 3/2020. Nếu khối này quyết định cắt giảm sản lượng thêm 500.000 thùng dầu/ngày, khối lượng dầu cắt giảm tương đương 1,7% nguồn cung dầu toàn cầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do thiếu chắc chắn về kết quả đàm phán thương mại Mỹ - Trung giai đoạn I.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.477,12 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,2% lên 1.483,10 USD/ounce.
Nhà phân tích Peter Fertig thuộc cơ quan nghiên cứu Quantitative Commodity Research nhận định thị trường đang có nhu cầu mua vào vàng như một nơi trú ẩn an toàn. Theo chuyên gia này, nếu Tổng thống Mỹ Donald Trump không đưa ra tuyên bố rõ ràng, nhà đầu tư sẽ vẫn giữ thái độ nghi ngại.
Ngày 5/12, Bộ Thương mại Trung Quốc khẳng định thuế quan cần được cắt giảm nếu Washington và Bắc Kinh tiến tới thỏa thuận thương mại “Giai đoạn 1”. Thông báo này được đưa ra một ngày sau khi ông Trump nói rằng các cuộc đàm phán thương mại đang tiến triển "rất tốt", trái ngược với tuyên bố trước đó của ông về khả năng thỏa thuận thương mại với Trung Quốc có thể phải đợi đến sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020.
Một nhân tố khác hỗ trợ giá vàng trong phiên vừa qua là sự suy yếu của đồng USD so với các đồng tiền khác, khiến kim loại quý này trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Tuy nhiên, các nhà giao dịch cũng lưu ý số liệu tích cực về kinh tế Mỹ - yếu tố hạn chế đà tăng của vàng. Theo thống kê, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 30/11, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 4/2019. Bên cạnh đó, thâm hụt thương mại của Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong gần một năm rưỡi trong tháng 10/2019.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tiếp tục tăng, lập kỷ lục cao mới trong lịch sử, là 1.876,54 USD/ounce, do lo ngại nguồn cung bị thiếu hụt. Hai kim loại quý khác là bạch kim và bạc cũng tăng trong phiên vừa qua, thêm lần lượt 0,4% và 0,8% lên 897,88 USD/ounce và 16,95 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng vững trong bối cảnh thị trường tiếp tục theo dõi diễn biến đàm phán thương mại Mỹ - Trung và lo ngại về kết quả sản xuất tại nước tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới là Trung Quốc.
Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng vững ở 5.889 USD/tấn. Như vậy, giá đồng đã giảm hơn 10% kể từ mức cao (6.600 USD/ounce) trong tháng 4/2019, mặc dù so với đầu năm 2019 chỉ thay đổi chút ít.
Hoạt động nhà máy của Trung Quốc phát đi những kết quả cải thiện bất ngờ trong tháng 11/2019, song các nhà phân tích lo ngại về giảm phát trong lĩnh vực này và không tin rằng điều tồi tệ nhất đã kết thúc đối với các nhà sản xuất nước này. Được biết Trung Quốc chiếm gần 1/2 nhu cầu đồng toàn cầu, ước đạt khoảng 24 triệu tấn trong năm nay.
Đối với nhóm hàng sắt thép, giá thép cuộn cán nóng tại Trung Quốc tăng phiên thứ 6 liên tiếp do dự trữ giảm và hoạt động sản xuất tại các nhà máy của nước này trong tháng 11/2019 bất ngờ tăng.
Giá thép cuộn cán nóng trên sàn Thượng Hải chốt phiên vừa qua tăng 0,7% lên 3.619 CNY (514,14 USD)/tấn, sau khi đầu phiên có lúc tăng 1,5% lên mức cao nhất kể từ ngày 26/7/2019, do tồn trữ thép HRC tại Trung Quốc tính đến ngày 29/11/2019 giảm xuống còn 2,04 triệu tấn, thấp nhất kể từ ngày 18/1/2019, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome cho biết. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,6% xuống 3.585 CNY/tấn; thép không gỉ giảm 0,4% trong bối cảnh nguồn cung tại Trung Quốc dồi dào.
Tuy nhiên, giá quặng sắt giảm trong phiên vừa qua. Trên sàn Đại Liên, quặng sắt giảm 0,5% sau 2 phiên tăng liên tiếp.
Trên thị trường nông sản, giá đường lập kỷ lục cao nhất 9 tháng do lượng mua vào mạnh giữa bối cảnh nguồn cung thắt chặt.
Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 0,03 US cent, tương đương 0,2%, lên 13,09 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 13,14 US cent/lb, cao nhất kể từ ngày 26/2/2019. Đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,3 USD tương đương 0,4% lên 347,9 USD/tấn.
Cà phê cũng đi lên trong phiên vừa qua. Cụ thể, cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 2,65 US cent, tương đương 2,2%, lên 1,239 USD/lb, trong phiên có lúc đạt 1,253 USD/lb, cao nhất hơn 1 năm. Trong khi đó, cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 22 USD tương đương 1,6% lên 1.392 USD/tấn.
Taị Châu Á, hoạt động giao dịch trầm lắng, giá giữ ở mức cao. Trên thị trường Việt Nam, giá cà phê robusta loại 2 xuất khẩu (5% đen, vỡ) được chào giá cộng 90-100 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London, không thay đổi so với cách đây 1 tuần; cà phê nhân xô được bán với giá 32.300-32.500 đồng (1,39-1,4 USD)/kg, giảm so với 33.000 đồng/kg hồi tuần trước. Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London, không thay đổi so với cách đây 1 tuần. Indonesia xuất khẩu 15.798,5 tấn cà phê robusta Sumatran trong tháng 11/2019, tăng 41% so với tháng 11/2018.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng phiên thứ 3 liên tiếp do giá khô đậu tương tăng mạnh, sau thông tin cho biết một nhà máy nghiền đậu tương Argentina đang gặp khó khăn về tài chính.
Trên sàn Chicago, giá khô đậu tương kỳ han tháng 1/2020 tăng 1,7% lên mức cao nhất gần 2 tuần; đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 6-1/4 US cent lên 8,84-1/4 USD/bushel. Những sự cố tại nhà máy nghiền đậu tương Vicentin Argentina có thể gây thắt chặt nguồn cung khô đậu tương toàn cầu.
Về các ngũ cốc khác, cũng trên sàn Chicago, giá lúa mì mềm, đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 3-3/4 US cent xuống 5,23-3/4 USD/bushel; ngô giao cùng kỳ hạn giảm 1-3/4 US cent xuống 3,76-3/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng 1,6% lên mức cao nhất 2 năm, do đồng ringgit suy yếu và triển vọng nguồn cung trong năm tới thắt chặt. Dầu cọ kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 43 ringgit tương đương 1,6% lên 2.816 ringgit (675,3 USD)/tấn.
Đối với mặt hàng cao su, giá tại Tokyo tăng gần 5% lên mức cao nhất hơn 5 tháng do giá cao su kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng mạnh, giữa bối cảnh giới đầu tư dấy lên lạc quan về kết quả cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung, sau những bình luận tích cực từ Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn TOCOM tăng 9,3 JPY tương đương 4,9% lên 198 JPY (1,82 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 198,3 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 24/6/2019 và có ngày tăng mạnh nhất kể từ tháng 6/2017. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 455 CNY lên 13.200 CNY (1.875 USD)/tấn; cao su TSR20 tăng 430 CNY lên 11.150 CNY/tấn.
Giá cao su tăng cũng được hỗ trợ bởi thông tin Nội các Thái Lan đã phê duyệt kế hoạch cắt giảm 21% diện tích trồng cao su trong 20 năm và thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng gấp hơn 3 lần.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,43

-0,01

-0,02%

Dầu Brent

USD/thùng

63,39

+0,39

+0,62%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.710,00

+280,00

+0,71%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,42

-0,01

-0,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

162,43

+0,32

+0,20%

Dầu đốt

US cent/gallon

193,49

+0,19

+0,10%

Dầu khí

USD/tấn

583,50

+4,50

+0,78%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.540,00

+340,00

+0,61%

Vàng New York

USD/ounce

1.481,10

-2,00

-0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.148,00

-11,00

-0,21%

Bạc New York

USD/ounce

17,02

-0,03

-0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,50

+0,20

+0,34%

Bạch kim

USD/ounce

896,68

-1,51

-0,17%

Palađi

USD/ounce

1.873,31

-1,46

-0,08%

Đồng New York

US cent/lb

266,65

+0,35

+0,13%

Đồng LME

USD/tấn

5.888,00

+3,00

+0,05%

Nhôm LME

USD/tấn

1.747,00

-11,00

-0,63%

Kẽm LME

USD/tấn

2.234,00

-12,00

-0,53%

Thiếc LME

USD/tấn

16.800,00

+50,00

+0,30%

Ngô

US cent/bushel

376,75

-1,75

-0,46%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

523,75

-3,75

-0,71%

Lúa mạch

US cent/bushel

295,25

-8,75

-2,88%

Gạo thô

USD/cwt

12,30

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

884,25

+6,25

+0,71%

Khô đậu tương

USD/tấn

301,50

+4,80

+1,62%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,50

+0,03

+0,10%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

454,50

+1,90

+0,42%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.580,00

+33,00

+1,30%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

124,85

+3,60

+2,97%

Đường thô

US cent/lb

13,08

+0,02

+0,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

95,75

+0,30

+0,31%

Bông

US cent/lb

64,51

-0,19

-0,29%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

405,30

+4,60

+1,15%

Cao su TOCOM

JPY/kg

198,50

+0,50

+0,25%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

+0,00

+0,22%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg