Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do đồn đoán OPEC sẽ tăng cường cắt giảm sản lượng, giữa bối cảnh đồng NDT phục hồi sau một tuần giảm giá.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 1,15 USD, hay 2,1%, lên 57,38 USD/ounce, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ tăng 1,45 USD, hay 2,8%, lên 52,54 USD/ounce.
Lượng dầu dự trữ ở Cushing, Oklahoma, giảm khoảng 2,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 6/8, theo số liệu của công ty Genscape. Cùng với đó, việc Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới, kêu gọi các nước sản xuất dầu khác thảo luận về đà giảm giá của dầu thô cũng góp phần hỗ trợ thị trường “vàng đen” trong phiên này.
Bên cạnh đó, đồng NDT đã mạnh lên do với đồng USD và xuất khẩu của Trung Quốc bất ngờ tăng trưởng trở lại trong tháng Bảy nhờ nhu cầu toàn cầu tăng bất chấp áp lực thương mại từ Mỹ. Đồng USD đã giảm 0,2% so với đồng NDT trên các thị trường hải ngoại.
Edward Moya, Chuyên gia phân tích thị trường cấp cao của công ty OANDA ở New York, cho rằng với tình hình giá dầu đang ở các mức thấp như hiện nay, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) rất có thể sẽ cân nhắc việc gia tăng các nỗ lực cắt giảm sản lượng trước thềm cuộc họp quan trọng sắp diễn ra tại Abu Dhabi.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khi các thị trường chứng khoán phục hồi, đồng USD mạnh lên và giới đầu tư chốt lời sau khi giá vàng vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce lên mức cao nhất trong hơn sáu năm trong phiên trước đó.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống còn 1.498,45 USD/ounce, trong khi giá vàng kỳ hạn giảm 0,7% và khép phiên ở mức 1.509,50 USD/ounce.
Giá vàng đã tăng hơn 16% từ đầu năm đến nay và khoảng 100 USD/ounce chỉ trong tuần vừa qua, do căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, lợi suất trái phiếu giảm và sự thay đổi chính sách theo hướng ngày càng nới lỏng của các ngân hàng trung ương trên toàn cầu.
Ông Phillip Streible, chiến lược gia hàng hóa cấp cao của công ty RJO Futures, cho rằng xu hướng khởi sắc của giá vàng vẫn chưa kết thúc và thị trường chỉ đang chứng kiến một sự điều chỉnh nhẹ trong phiên 8/8, giữa lúc các thị trường chứng khoán phục hồi do đồng NDT ổn định hơn đã giúp trấn an các thị trường sau khi sự giá mạnh của đồng tiền này trong vài ngày qua đã khiến giới đầu tư tìm đến các kênh trú ẩn an toàn.
Lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ kỳ hạn 10 năm đã phục hồi phần nào khi tăng 6,2 điểm cơ bản lên 1,753%. Đồng USD cũng tăng nhẹ so với rổ các đồng tiền chủ chốt, khiến cho vàng được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữa các đồng tiền khác.
Tuy nhiên, theo ông Streible, những đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ mạnh tay hơn trong việc cắt giảm lãi suất vẫn đang hỗ trợ giá vàng. Sau khi hạ lãi suất hồi tuần trước, Fed được dự đoán sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất thêm ba lần nữa từ nay đến cuối năm nhằm tránh kịch bản suy thoái kinh tế.
Phản ánh nhu cầu vàng của giới đầu tư, lượng vàng mà quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ đã tăng 7,3% từ đầu năm đến nay.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống còn 16,95 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,1% và được giao dịch ở mức 860,81 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm hơn 2%, giảm phiên thứ 6 liên tiếp do lo ngại nguồn cung toàn cầu gia tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 2,7% xuống 664 CNY/tấn. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 16% từ mức cao kỷ lục 789,5 CNY (112,06 USD)/tấn trong ngày 31/7/2019.
Giá quặng sắt chịu áp lực giảm do dự trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc trong tuần này tăng lên 121,05 triệu tấn, tăng 5% so với mức thấp nhất 1,5 năm (115,25 triệu tấn) hồi cuối tháng 6/2019. Đồng thời, nhập khẩu quặng sắt của nước này trong tháng 7/2019 tăng 21% so với tháng trước đó lên mức cao nhất kể từ tháng 1/2019. Tuy nhiên, các nhà phân tích dự kiến giá quặng sắt sẽ sớm được hỗ trợ, do nhu cầu của các nhà máy thép vẫn tăng sau khi các biện pháp chống ô nhiễm môi trường khu vực phía bắc Trung Quốc sẽ được nới lỏng trong tháng 8/2019.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 1,1% xuống 3.672 CNY/tấn. Cùng với đó là giá thép cuộn cán nóng giảm 0,4% xuống 3.643 CNY/tấn, do dự trữ các sản phẩm thép tại Trung Quốc tăng 300.000 tấn lên 12,83 triệu tấn tính đến tuần kết thúc ngày 2/8/2019, cao nhất kể từ giữa tháng 4/2019, công ty tư vấn Mysteel cho biết.
Giá nickel tăng hơn 7% lên mức cao nhất trong 16 tháng do lo ngại thiếu cung khi nước cung cấp lớn thế giới Indonesia có nhiều khả năng sẽ đặt lệnh cấm xuất khẩu quặng nickel và tồn kho giảm mạnh tại LME trong khi nhu cầu tiêu thụ có nhiều dấu hiệu tốt hơn khi xuất khẩu của Trung Quốc đột ngột tăng mạnh trong tháng 7.
Giá nickel kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) trong ngày đã tăng hơn 12% lên 16.690 USD/tấn, bằng mức cao đạt được trong tháng 4/2018, sau đó lại giảm còn 15.880 USD vào lúc đóng cửa, tăng 7,2% so với phiên liền trước.
Giá nickel tại Thượng Hải cũng tăng 6% lên mức cao kỷ lục 124.890 CNY(17.732,50 USD)/tấn. Dự trữ nickel trong các kho LME đã giảm xuống còn khoảng 140.000 tấn so với khoảng 370.000 tấn vào đầu năm 2018, mức thấp nhất kể từ năm 2013.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 tăng 0,1 US cent tương đương 0,9% lên 11,43 US cent/lb, đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 3 USD tương đương 1% lên 310,8 USD/tấn.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica giao tháng 9/2019 tăng 0,5 US cent tương đương 0,6% lên 97,40 US cent/lb, robusta giao cùng kỳ hạn tăng 10 USD tương đương 1.312 USD/tấn.
Tại Châu Á, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tuần này tăng do nhu cầu mạnh trên thị trường quốc tế và thiếu nguồn cung trong nước, trong khi giá cà phê tại Indonesia cũng được hỗ trợ nhờ nguồn cung dự kiến sẽ giảm khi vụ thu hoạch sắp kết thúc.
Tại Việt Nam, người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 35.000 đồng(1,51 USD)/kg, tăng so với 34.600 đồng tuần trước. Trong khi đó, các thương nhân chào bán robusta loại 5% đen, vỡ (loại 2) ở mức cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 ở phiên liền trước trên sàn London, tăng 60 USD/tấn so với tuần trước.
Trong hai ngày qua, mưa lớn đã hoành hành tại một số khu vực của Tây Nguyên và dự kiến sẽ tiếp tục trong vài ngày tới, điều này có thể ảnh hưởng tới mùa cà phê tới.
Trong khi đó tại Lumpung (Indonesia), cà phê robusta được chào giá cộng 170 – 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 của phiên liền trước trên sàn London, tăng so với mức cộng 150-200 USD/tấn cách đây một tuần.
Tổ chức Cà phê Quốc tế đã nâng dự báo về sản lượng cà phê toàn cầu trong năm 2018/19 lên 168,77 triệu bao(60 kg) so với dự kiến trước đó là 167,75 triệu.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 4 liên tiếp lên mức cao nhất 10 tuần, theo xu hướng giá dầu đậu tương tại Chicago tăng, song mức tăng bị hạn chế do đồng ringgit tăng mạnh.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 0,3% lên 2.111 ringgit (504,78 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch tăng lên 2.114 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 29/5/2019.
Giá cao su tại Tokyo tăng nhẹ theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải tăng. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 1,8 JPY (0,017 USD) lên 168,8 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 2 JPY xuống 142 JPY/kg.
Đồng thời giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 70 CNY (9,94 USD) lên 11.575 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,54

+1,45

+2,9%

Dầu Brent

USD/thùng

57,38

+1,15

+2,1%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.300,00

-290,00

-0,81%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,11

-0,02

-0,85%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

164,68

+0,11

+0,07%

Dầu đốt

US cent/gallon

177,73

+0,07

+0,04%

Dầu khí

USD/tấn

544,00

+1,25

+0,23%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.390,00

-280,00

-0,52%

Vàng New York

USD/ounce

1.513,80

+4,30

+0,28%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.105,00

-7,00

-0,14%

Bạc New York

USD/ounce

17,04

+0,10

+0,58%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,00

-0,70

-1,19%

Bạch kim

USD/ounce

866,49

+1,03

+0,12%

Palađi

USD/ounce

1.423,22

+0,84

+0,06%

Đồng New York

US cent/lb

259,60

-1,15

-0,44%

Đồng LME

USD/tấn

5.798,00

+93,00

+1,63%

Nhôm LME

USD/tấn

1.778,00

+33,00

+1,89%

Kẽm LME

USD/tấn

2.304,00

+43,00

+1,90%

Thiếc LME

USD/tấn

16.855,00

+100,00

+0,60%

Ngô

US cent/bushel

417,75

-0,50

-0,12%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

497,50

-1,00

-0,20%

Lúa mạch

US cent/bushel

273,50

-0,50

-0,18%

Gạo thô

USD/cwt

11,32

-0,04

-0,31%

Đậu tương

US cent/bushel

883,50

+0,50

+0,06%

Khô đậu tương

USD/tấn

303,00

+1,00

+0,33%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,30

-0,08

-0,27%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

452,40

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.254,00

-12,00

-0,53%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,40

+0,50

+0,52%

Đường thô

US cent/lb

11,43

+0,09

+0,79%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

101,80

+0,80

+0,79%

Bông

US cent/lb

59,54

-0,04

-0,07%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

363,60

+5,60

+1,56%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,60

+1,80

+1,07%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters