Năng lượng: Giá dầu đảo chiều tăng
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York tăng 34 US cent (0,6%) lên 61,68 USD/thùng; dầu Brent trên sàn London tăng 51 US cent (0,8%) lên 64,84 USD/thùng, sau khi có lúc chạm mức cao nhất tám ngày qua.
Tính chung cả tuần giá dầu WTI tăng 4%. Tuần trước giá dầu này giảm gần 10%. Dầu Brent tuần này tăng hơn 3%, sau khi hạ hơn 8% vào tuần trước đó.
Sự phục hồi của thị trường chứng khoán và đồng USD yếu đã giúp giá dầu quay đầu đi lên sau khi giảm sâu ở tuần trước.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã điều chỉnh tăng 7,7% dự báo về nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của nước này tăng 1,8 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 9/2/2018, thấp hơn dự báo tăng 3,9 triệu thùng của Viện Xăng dầu Mỹ (API) và dự báo tăng 2,6 triệu thùng từ các nhà phân tích tham gia cuộc thăm dò của WSJ.
Nhà đầu tư vẫn tỏ ra lo lắng về khả năng sản lượng dầu đá phiến tại Mỹ có thể ảnh hưởng đến thị trường. Vào đầu tuần IEA dự báo sản lượng dầu thô từ các nhà sản xuất ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) - chủ yếu là từ Mỹ - có thể vượt nhu cầu dầu toàn cầu trong năm nay.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giao tháng 4/2018 tại sàn COMEX tăng 90 US cent (gần 0,1%) lên 1.356,3 USD/ounce – mức cao nhất trong gần 3 tuần. Tính chung cả tuần, giá kim loại quý này đã tăng 3% - mạnh nhất kể từ ngày 29/4/2016, theo số liệu thống kê của WSJ Market Group Data, trong bối cảnh đồng USD suy yếu.
Chỉ số USD đo sức mạnh của đồng nội tệ Mỹ so với rổ các đồng tiền chủ chốt đang hướng đến mức giảm theo tuần lớn nhất trong vòng ba tuần qua, vào khoảng 1,4%.
Hồi đầu tuần này, chỉ số trên đã có thời điểm giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2014. Xu hướng giảm giá của đồng bạc xanh là yếu tố hỗ trợ tích cực thị trường vàng trong tuần vừa qua.
Vàng trở nên hấp dẫn với nhà đầu tư khi đồng USD giảm giá - nhân tố khiến kim loại quý này trở nên rẻ hơn đối với người mua đang nắm giữ các đồng tiền khác.
Bên cạnh đó, lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cũng là nhân tố quan trọng chi phối thị trường vàng trong tuần này.
Bộ Lao động Mỹ cho biết Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của nước này tăng 0,5% trong tháng 1/2018 khi các hộ gia đình chi trả nhiều hơn tiền mua xăng, tiền thuê nhà, chi phí chăm sóc sức khỏe. Điều này sẽ làm gia tăng sức ép lên tân Chủ tịch Fed Jerome Powell trong việc ngăn ngừa khả năng nền kinh tế trở nên quá "nóng".
Nhiều ý kiến dự đoán Fed có thể tăng lãi suất bốn lần trong năm nay để ngăn ngừa lạm phát, sau khi số liệu CPI được công bố và Fed dự đoán lạm phát sẽ tăng tốc cuối năm nay.
Dù vậy, các nhà phân tích tại INTL FCStone nhận định rằng lạm phát tăng, cùng với số liệu tăng trưởng kinh tế Mỹ thấp hơn dự đoán và đồng USD yếu sẽ tiếp tục hỗ trợ đà đi lên của giá vàng, do nhà đầu tư có xu hướng tìm đến vàng như một công cụ chống lạm phát.
Nông sản: Giá giảm
Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica giảm 3% xuống mức thấp nhất 2 tháng do hoạt động bán ra. Arabica giao tháng 5 giảm 3,7 US cent tương đương 3% xuống 1,2045 USD/lb, sau khi có lúc giá chạm mức thấp nhất 2 tháng là 1,202 USD.
Robusta giao cùng kỳ hạn giảm 29 USD tương đương 1,6% xuống 1.754 USD/tấn.
Thị trường cà phê đang chịu tác động từ nhiều yếu tố. Bên cạnh thông tin nguồn cung cà phê ở Colombia thắt chặt thì cũng có tin dự trữ của Mỹ giảm.
Trong khi đó, giá đường thô giao tháng 5 giảm 0,23 US cent tương đương 1,7% xuống 13,28 US cent/lb, còn đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 4,3 USD tương đương 1,2% xuống 356,80 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
10/2
|
17/2
|
17/2 so với 16/2
|
17/2 so với 16/2(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
59,83
|
61,68
|
+0,34
|
+0,55%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,35
|
64,84
|
+0,51
|
+0,79%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
39.590,00
|
40.180,00
|
+410,00
|
+1,03%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,60
|
2,56
|
-0,02
|
-0,85%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
171,50
|
175,09
|
+1,51
|
+0,87%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
186,68
|
191,04
|
+1,88
|
+0,99%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
557,00
|
570,25
|
+13,00
|
+2,33%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.720,00
|
55.020,00
|
+370,00
|
+0,68%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.325,80
|
1.356,20
|
+0,90
|
+0,07%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.583,00
|
4.602,00
|
-5,00
|
-0,11%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,43
|
16,71
|
-0,08
|
-0,50%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
57,30
|
57,20
|
-0,40
|
-0,69%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
971,30
|
1.005,41
|
+3,31
|
+0,33%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
986,23
|
1.047,64
|
+26,61
|
+2,61%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
308,80
|
326,85
|
+0,40
|
+0,12%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.755,00
|
7.233,00
|
+51,00
|
+0,71%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.123,00
|
2.208,00
|
+43,00
|
+1,99%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.385,00
|
3.575,00
|
+5,00
|
+0,14%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.025,00
|
21.750,00
|
+180,00
|
+0,83%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
366,25
|
375,00
|
-0,50
|
-0,13%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
456,75
|
471,50
|
-3,75
|
-0,79%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
270,75
|
271,75
|
+1,25
|
+0,46%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,39
|
12,02
|
+0,07
|
+0,54%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
999,00
|
1.032,50
|
-2,50
|
-0,24%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
357,10
|
376,00
|
+0,50
|
+0,13%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,36
|
31,73
|
-0,17
|
-0,53%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
506,90
|
508,20
|
+2,40
|
+0,47%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.060,00
|
2.134,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
123,80
|
120,45
|
-3,70
|
-2,98%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,55
|
13,28
|
-0,23
|
-1,70%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
147,60
|
149,90
|
+2,30
|
+1,56%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,86
|
77,16
|
+0,39
|
+0,51%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
483,00
|
507,80
|
+7,10
|
+1,42%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
190,10
|
182,90
|
+1,40
|
+0,77%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,40
|
1,48
|
0,00
|
-0,13%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg