Năng lượng: Dầu giảm mạnh trong tuần
Phiên cuối tuần, giá dầu giảm do sản lượng của Saudi Arabia hồi phục nhanh hơn dự kiến trong bối cảnh các nhà đầu tư lo ngại nhu cầu dầu thô toàn cầu và kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại.
Cuối phiên, dầu Brent giảm 83 US cent (1,3%) xuống 61,91 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 50 US cent (0,9%) xuống 55,91 USD/thùng. Như vậy, dầu đã về gần bằng mức trước khi các cơ sở lọc dầu của Saudi Arabi bị tấn công, hôm 14/9.
Tính chung cả tuần, Brent mất 3,7% - nhiều nhất kể từ đầu tháng 8/2019; WTI mất 3,6% - nhiều nhất kể từ giữa tháng 7/2019.
Saudi Arabia là yếu tố chính gây biến động giá dầu thế giới trong hầu như suốt tháng 9 này, tạo ra những kỷ lục về mức thay đổi giá hàng tuần cũng như hàng tháng. Báo chí đưa tin, quốc gia này đã khôi phục công suất dầu về mức 11,3 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên, hãng Aramco chưa lên tiếng xác nhận sản lượng của họ đã được khôi phục hoàn toàn.
Bên cạnh đó, những thông tin cho thấy kinh tế thế giới đang suy yếu xuất phát từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung cũng gây lo ngại nhu cầu sụt giảm, gia tăng áp lực lên mặt hàng dầu.
Chỉ vài ngày sau khi các quan chức thương mại của Mỹ và Trung Quốc kết thúc cuộc đàm phán thương mại cấp Thứ trưởng tại New York mà không có kết quả, tại cuộc họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ Donald Trump cáo buộc Trung Quốc thực hiện các biện pháp thương mại không công bằng, bao gồm các rào cản thị trường, thao túng tiền tệ và đánh cắp tài sản trí tuệ. Điều này cho thấy nỗ lực giải quyết tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và tiêu thụ nhiên liệu nhiều nhất thế giới vẫn chưa đạt được tiến triển đáng kể nào.
Chưa dừng ở đó, có thông tin cho hay Chính phủ Mỹ đang xem xét khả năng loại các công ty Trung Quốc khỏi các sàn giao dịch chứng khoán của nước này, động thái được cho là sẽ làm gia tăng mạnh căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Trong khi đó, niềm tin tiêu dùng ở Mỹ trong tháng 9/2019 đã giảm mạnh nhất trong chín tháng qua. Tại Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và cũng là nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất, nhiều công ty công nghiệp đã ghi nhận lợi nhuận sụt giảm trong tháng Tám. Dữ liệu kinh tế của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu và Nhật Bản cũng ảm đạm.
Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) cho biết có thể sẽ hạ dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu năm 2019 và 2020 nếu kinh tế thế giới tiếp tục suy yếu.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giảm mạnh vào đầu phiên vừa qua nhưng đã hồi phục gần hết mức giảm đó vào cuối phiên sau thông tin Mỹ đang xem xét đưa các công ty Trung Quốc ra khỏi các sàn giao dịch chứng khoán Mỹ. Các nhà đầu tư lại hướng tới những tài sản an toàn như vàng.
Cuối phiên, vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.498,07 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ 19/8 là 1.486,6 USD lúc đầu phiên; tính chung cả tuần vẫn mất khoảng 1,2%. Vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,6% xuống 1.506,4 USD/ounce.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trumg đang xem xét cấm các công ty Trung Quốc niêm yết trên các sàn chứng khoán của Mỹ và bắt buộc hủy niêm yết với các công ty đã niêm yết trước đó. Các quỹ đầu tư hưu trí của Mỹ cũng sẽ bị hạn chế tiếp cận thị trường Trung Quốc. Cổ phiếu của các tập đoàn Trung Quốc như Alibaba, JD.com, Pinduoduo, Baidu, Vipshop Holdings, Baozun và IQIYI đã giảm từ 2% đến 4% ngay sau khi có thông tin trên.
Số liệu được Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ-Trung công bố cho thấy tính đến cuối tháng 2/2019, giá trị vốn hóa thị trường của 156 công ty Trung Quốc, bao gồm ít nhất 11 công ty nhà nước, được niêm yết trên 3sàn giao dịch lớn nhất của Mỹ đã đạt tới con số 1,2 nghìn tỷ USD.
Về những kim loại quý khác, bạch kim giảm 0,1% xuống 929,02 USD/ounce, tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng một tháng, bạc giảm 1,5% xuống 17,54 USD/oune, trong khi palađi tăng 0,9% lên 1.682,56 USD/ounce và tính chung cả tuần tăng gần 2,5% - tuần tăng thứ 8 liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá nhôm giảm, sắt thép biến động trái chiều
Giá nhôm vừa trải qua tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 10 năm ngoái do giá alumina giảm và triển vọng nhu cầu yếu bởi kinh tế sa sút thì những lĩnh vực như vậy tải hay đóng gói – sử dụng nhiều nhôm – cũng kém theo.
Cuối phiên, trên sàn London, nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,1% xuống 1.735 USD/tấn, trong phiên có lúc xuống chỉ 1.721,5 USD, và tính chung cả tuần giảm hơn 3%.
Nhà phân tích Xiao Fu của Bank of China International cho biết, nhu cầu yếu là bởi hoạt động công nghiệp chậm lại, và điều này có thể còn gây áp lực giảm giá hơn nữa. Lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc sụt giảm trong tháng 8/2019 sau 3 tháng tăng trước đó.
Kẽm tăng trong phiên vừa qua, thêm 0,2% lên 2.303,5 USD/tấn, tính chung cả tuần nhìn chung không thay đổi. Trong khi đó, giá đồng tăng 0,8% lên 5.767 USD/tấn, nickel vững ở 17.205 USD/tấn còn thiếc giảm 1,2% xuống 16.125 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên đã tăng 1,6% trong phiên vừa qua lên 642,5 CNY/tấn, mặc dù khối lượng giao dịch ít. Tuy nhiên, quặng sắt hàm lượng 62% nhập khẩu vào Trung Quốc giảm xuống 92,5 USD/tấn từ mức 93 USD/tấn của phiên trước.
Hãng khai mỏ Brazil, Vale SA, vừa hạ dự báo về sản lượng quặng năm 2019 của hãng xuống 43 triệu tấn, từ mức 45 triệu tấn dự báo trước đây, nhưng cho biết điều đó sẽ không ảnh hưởng đến doanh số.
Giá thép không gỉ trên sàn Thượng Hải tăng 0,1% lên 15.725 CNY/tấn, trong khi thép cây giá giảm 1,1% xuống 3.437 CNY/tấn, và thép cuộn cán nóng giảm 1,4% xuống 3.443 CNY/tấn.
Nông sản: Giá đường tăng, cao su và dầu cọ giảm
Giá cà phê arabica tăng 0,05 US cent tương đương 0,1% trong phiên cuối tuần, lên 1,009 USD/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 7 USD tương đương 0,5% lên 1.321 USD/tấn.
Giá đường không thay đổi trong phiên vừa qua, nhưng tính chung cả tuần tăng tuần thứ 2 liên tiếp do dự báo nguồn cung trong những tháng tới sẽ trở nên khan hiếm.
Cuối phiên, đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 vững ở 12,62 US cent/lb, phiên liền trước đã đạt mức cao nhất kể từ 16/8 là 12,72 US cent, tính chung cả tuần tăng 4,6%. Đường trắng cùng phiên tăng 1,6 USD hay 0,5% lên 341,4 USD/tấn, chỉ thấp hơn chút ít so với mức cao nhất 6 tháng của phiên trước – 342 USD/tấn; tính chung cả tuần tăng 4,8%.
Thị trường đang có động lực đi lên bởi dự báo niên vụ 2019/20 sẽ thiếu hụt nguồn cung, mặc dù khả năng Ấn Độ xuất khẩu nhiều đường cản trở đà tăng. Các nhà phân tích tính rằng Ấn Độ sẽ xuất khẩu khoảng 3-4 triệu tấn đường trong năm 2019.
Giá dầu cọ Malaysia phiên cuối tuần đi xuống và tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng 3 tháng theo xu hướng giá dầu thực vật nói chung.
Trên sàn Bursa (Malaysia), dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,9% xuống 2.150 ringgit/tấn; tính chung cả tuần giảm 3,4%, nhiều nhất kể từ 28/6/2019.
Dorab Mistry, Giám đốc công ty hàng tiêu dùng Godrej International của Ấn Độ, dự báo giá dầu cọ tham chiếu sẽ tăng lên 2.500 ringgit/tấn vào tháng 3/2020. Trong khi đó, Malaysia dự báo giá sẽ vào khoảng 2.200 – 2.300 ringgit/tấn trong quý 4/2019.
Theo Giám đốc Ủy ban Dầu cọ Malaysia, Ahmad Parveez Ghulam Kadir, tồn trữ dầu cọ ở nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới này đã tăng lên mức cao nhất gần 2 thập kỷ là 3,2 triệu tấn vào cuối năm 2018, sau đó giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng vào tháng 8/2018, là 2,25 triệu tấn. Ông nhận định giá sẽ trong khoảng 2.200 ringgit (525 USD) đến 2.300 ringgit trong giai đoạn tháng 10-12/2019. Đồng thời ông cũng hạ dự báo về sản lượng dầu cọ Malaysia năm nay xuống 20 triệu tấn, thấp hơn chút ít so với 20,3 triệu tấn dự báo trước đây, nhưng cho rằng sản lượng năm 2020 sẽ tăng lên 20,5 triệu tấn. Xuất khẩu của Malaysia năm 2019 dự báo tăng ít nhất 10% so với năm trước, đạt 18,2 triệu tấn, so với 16,5 triệu tấn năm 2018.
Giá cao su tại Tokyo giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng trong phiên vừa qua do các nhà đầu tư nghỉ sớm trước ngày Quốc khánh của Trung Quốc.
Hợp đồng tháng 3 năm sau trên sàn Tokyo giảm 4,8 JPY tương đương 2,9% xuống 161,5 JPY (1,5 USD)/kg, đầu phiên có lúc chạm mức thấp nhất kể từ 26/8 là 156,6 JPY. Tính chung cả tuần, giá giảm 3,1%.
Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 305 CNY xuống 11.425 CNY (1.603 USD)/tấn, loại TSR 20 giảm 195 CNY xuống 9.785 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 21/9

Giá 28/9

28/9 so với 27/9

28/9 so với 27/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,09

55,91

-0,50

-0,89%

Dầu Brent

USD/thùng

64,28

61,91

-0,83

-1,32%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.060,00

37.580,00

-30,00

-0,08%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,53

2,40

-0,04

-1,60%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,84

165,14

-0,98

-0,59%

Dầu đốt

US cent/gallon

198,63

194,16

-1,35

-0,69%

Dầu khí

USD/tấn

617,25

602,25

+9,00

+1,52%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.460,00

55.090,00

-190,00

-0,34%

Vàng New York

USD/ounce

1.515,10

1.506,40

-8,80

-0,58%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.230,00

5.189,00

-11,00

-0,21%

Bạc New York

USD/ounce

17,85

17,65

-0,26

-1,45%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

60,60

-0,90

-1,46%

Bạch kim

USD/ounce

946,30

931,03

-0,37

-0,04%

Palađi

USD/ounce

1.642,59

1.684,40

+15,36

+0,92%

Đồng New York

US cent/lb

260,65

259,75

+2,00

+0,78%

Đồng LME

USD/tấn

5.798,00

5.767,00

+45,00

+0,79%

Nhôm LME

USD/tấn

1.795,00

1.735,00

-2,00

-0,12%

Kẽm LME

USD/tấn

2.305,00

2.303,50

+1,50

+0,07%

Thiếc LME

USD/tấn

16.725,00

16.130,00

-170,00

-1,04%

Ngô

US cent/bushel

370,75

371,50

-1,00

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

484,25

487,25

+3,00

+0,62%

Lúa mạch

US cent/bushel

275,75

270,00

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,32

12,16

+0,08

+0,62%

Đậu tương

US cent/bushel

882,75

883,00

-5,50

-0,62%

Khô đậu tương

USD/tấn

295,00

295,10

-0,50

-0,17%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,40

28,84

-0,33

-1,13%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

447,40

445,80

-1,80

-0,40%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.473,00

2.490,00

-15,00

-0,60%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

98,40

100,90

+0,05

+0,05%

Đường thô

US cent/lb

12,07

12,62

0,00

0,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,15

99,85

+2,35

+2,41%

Bông

US cent/lb

60,52

60,90

+0,62

+1,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

383,80

371,60

-0,40

-0,11%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,50

161,00

-0,50

-0,31%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

1,41

+0,02

+1,73%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg