Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên mức cao nhất 9 tháng do lạc quan về tiến triển thỏa thuận kích thích tài chính tại Mỹ và nhu cầu lọc dầu tại Trung Quốc và Ấn Độ đạt mức cao kỷ lục.
Chốt phiên giao dịch ngày 17/12, dầu thô Brent tăng 42 US cent lên 51,5 USD/thùng, trong phiên có lúc đạt 51,9 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 54 US cent lên 48,36 USD/thùng, trong phiên có lúc đạt 48,59 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 3/2020.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã tiến gần hơn đến thỏa thuận về gói chi tiêu cứu trợ trị giá 900 tỷ USD chống Covid-19.
Ngoài ra, giá dầu còn được hỗ trợ bởi lượng tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần tính đến ngày 11/12/2020 giảm 3,1 triệu thùng, thấp hơn nhiều so với dự kiến là giảm 1,9 triệu thùng của các nhà phân tích.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% lên mức cao nhất 1 tháng do đồng USD giảm và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cam kết cung cấp nhiều tiền mặt hơn cho nền kinh tế và giữ lãi suất ở mức thấp.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 1,1% lên 1.885,37 USD/ounce, đầu có lúc giá đạt 1.895,81 USD/ounce – cao nhất 1 tháng; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn New York tăng 1,7% lên 1.890,4 USD/ounce. Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng tăng hơn 24%.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất gần 8 năm, do tồn trữ đồng trên thế giới giảm, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cam kết bơm nhiều tiền hơn vào thị trường và gia tăng kỳ vọng gói kích thích của Mỹ trong tuần này.
Giá đồng kỳ hạn trên sàn London tăng 1% lên 7.915,5 USD/tấn, gần sát mức cao kỷ lục 8 năm của ngày 11/12/2020 - 7.973,5 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 2/2013.
Lượng đồng lưu kho trên sàn London hiện chỉ còn 127.725 tấn – thấp nhất kể từ tháng 9/2020, trong khi tồn trữ đồng tại Thượng Hải là 82.092 tấn – thấp nhất kể từ năm 2014, tồn trữ đồng trên sàn Comex chạm 78.084 tấn – thấp nhất kể từ tháng 6/2020.
Giá nhôm trên sàn London tăng 1% lên 2.055,5 USD/tấn, trước đó trong phiên đạt 2.096 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 10/2018.
Giá thiếc trên sàn London tăng 0,3% lên 19.980 USD/tấn, trước đó trong phiên tăng lên hơn 20.000 USD/tấn – lần đầu tiên kể từ tháng 4/2019.
Trong nhóm sắt thép, giá thép tại Trung Quốc tăng phiên thứ 2 liên tiếp, được hỗ trợ bởi triển vọng nhu cầu năm 2021 tăng mạnh và giá quặng sắt trên sàn Đại Liên vượt mốc 1.000 CNY/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,7% lên 4.175 CNY (638,94 USD)/tấn, giá thép cuộn cán nóng tăng 1,1% lên 4.446 CNY/tấn. Giá thép không gỉ giảm 0,4%.
Hiệp hội Các nhà sản xuất Ô tô Trung Quốc dự kiến doanh số bán ô tô tại thị trường lớn nhất thế giới trong năm tới sẽ tăng lên 26,3 triệu chiếc, nhờ chính sách hỗ trợ của chính phủ và chiết khấu của các nhà sản xuất ô tô.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Đại Liên tăng 2,6% lên 1.026,5 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 155,8 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương và ngô tại Mỹ tăng, theo đó đậu tương vượt mốc 12 USD/bushel và đạt mức cao nhất mới 4,5 năm sau khi xuất khẩu hàng tuần của Mỹ tăng mạnh.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 17-1/2 US cent lên 12,01-1/4 USD/bushel, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 5-1/4 US cent lên 4,32-1/2 USD/bushel. Giá lúa mì mềm đỏ, vụ đông kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 10-1/4 US cent lên 6,08-3/4 USD/bushel.
Giá lúa mì trên sàn Chicago tăng, vượt ngưỡng quan trọng 6 USD/bushel do triển vọng xuất khẩu được cải thiện bởi đồng USD suy yếu và thuế xuất khẩu của Nga được công bố gần đây.
Nhu cầu đối với hàng hóa Mỹ tăng, làm dấy lên mối lo ngại về vụ thu hoạch tại Nam Mỹ, khiến nguồn cung toàn cầu thắt chặt do triển vọng thời tiết vẫn không chắc chắn, bởi cây trồng đang trong giai đoạn phát triển.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 duy trì vững ở mức 1,265 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 9 USD tương đương 0,6% lên 1.387 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, tồn trữ cà phê xanh của Mỹ giảm mạnh hơn so với dự kiến xuống mức thấp nhất 5 năm trong đầu tuần này, cũng hỗ trợ giá cà phê trong đầu tuần tăng.
Ở Châu Á, giao dịch cà phê tại Việt Nam diễn ra không sôi động giữa bối cảnh nguồn cung duy trì vững, do thời tiết thuận lợi hỗ trợ việc hái và sấy cà phê, trong khi thị trường Indonesia giao dịch trầm lắng do tồn trữ ở mức thấp.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 95-110 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn London, giảm so với mức cộng 110-120 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 33.000-33.400 VND (1,43-1,45 USD)/kg, tăng so với mức giá 31.500-32.000 VND/kg cách đây 1 tuần và theo xu hướng giá cà phê trên sàn London tăng.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 230 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2021 và 270 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2021 trên sàn London, cả hai đều không thay đổi so với cách đây 1 tuần.
Giá đường tăng do đồng USD chạm mức thấp nhất hơn 2 năm so với các đồng tiền chủ chốt khác. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE tăng 0,19 US cent tương đương 1,3% lên 14,68 US cent/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 6 tuần (14,09 US cent/lb) trong đầu tuần này; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 4,6 USD tương đương 1,15% lên 403,4 USD/tấn.
Ngoài ra, giá đường được hỗ trợ bởi Anh cho phép 260.000 tấn đường thô được nhập khẩu miễn thuế vào năm 2021, khi nước này xây dựng chính sách thương mại độc lập – lần đầu tiên – trong gần 50 năm.
Đối với mặt hàng cao su, giá cao su trên sàn Osaka tăng do kỳ vọng các biện pháp kích thích tài chính của Mỹ và Cục Dự trữ Liên bang cam kết sẽ giữ lãi suất ở mức thấp, thúc đẩy lạc quan về sự phục hồi nền kinh tế toàn cầu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Osaka tăng 3,5 JPY tương đương 1,5% lên 244 JPY (2,4 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 85 CNY lên 14.620 CNY/tấn.
Fed cho biết sẽ tiếp tục chính sách lãi suất thấp, trong khi các nhà lập pháp Mỹ tiến gần hơn đến việc đồng ý khoản viện trợ Covid-19 bổ sung trị giá 900 tỉ USD.
Giá hàng hóa thế giới sáng 17/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,25

-0,11

-0,23%

Dầu Brent

USD/thùng

51,33

-0,17

-0,33%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

32.660,00

-20,00

-0,06%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,67

+0,03

+1,21%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

138,57

-0,24

-0,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

149,06

-0,46

-0,31%

Dầu khí

USD/tấn

426,50

-0,25

-0,06%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

47.750,00

+100,00

+0,21%

Vàng New York

USD/ounce

1.885,60

-4,80

-0,25%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.254,00

+34,00

+0,55%

Bạc New York

USD/ounce

26,10

-0,08

-0,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

88,80

+4,00

+4,72%

Bạch kim

USD/ounce

1.043,01

-5,84

-0,56%

Palađi

USD/ounce

2.343,05

-1,99

-0,08%

Đồng New York

US cent/lb

362,25

+2,10

+0,58%

Đồng LME

USD/tấn

7.920,00

+84,00

+1,07%

Nhôm LME

USD/tấn

2.053,00

+18,00

+0,88%

Kẽm LME

USD/tấn

2.856,00

+24,00

+0,85%

Thiếc LME

USD/tấn

20.000,00

+75,00

+0,38%

Ngô

US cent/bushel

433,25

+0,75

+0,17%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

610,75

+2,00

+0,33%

Lúa mạch

US cent/bushel

336,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,58

0,00

-0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

1.214,00

+8,50

+0,71%

Khô đậu tương

USD/tấn

400,20

+2,80

+0,70%

Dầu đậu tương

US cent/lb

39,44

-0,06

-0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

609,20

+0,70

+0,12%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.541,00

+24,00

+0,95%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

126,60

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

14,68

+0,19

+1,31%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117,60

-2,40

-2,00%

Bông

US cent/lb

77,19

+1,54

+2,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

840,10

+21,50

+2,63%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,90

-0,10

-0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,38

+0,01

+0,73%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg