Năng lượng: Giá dầu tăng khoảng 5-6%, khí gas tăng mạnh
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 8/2020, giá dầu thô Brent giảm 53 US cent tương đương 1,2% xuống 45,28 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 36 US cent tương đương 0,8% xuống 42,61 USD/thùng.
Nguyên nhân do các nền kinh tế lớn trên thế giới hồi phục chậm chạp từ các hạn chế virus corona và thị trường có thể vẫn dư cung nhiên liệu. Đồng thời, sản lượng dầu của Mỹ trong tháng 6/2020 tăng 420.000 thùng/ngày lên 10,44 triệu thùng/ngày gây áp lực đối với giá dầu, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết.
Ngoài ra, nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong tháng 9/2020 giảm lần đầu tiên trong 5 tháng, do khối lượng lưu trữ dầu thô trong và ngoài nước nhập khẩu lớn nhất thế giới đạt mức cao kỷ lục, số liệu từ Refinitiv và Vortexa cho biết.
Tuy nhiên, tính chung cả tháng 8, giá dầu Brent tăng 7,5% - tháng tăng thứ 5 liên tiếp, giá dầu WTI tăng 5,8% - tháng tăng thứ 4 liên tiếp.
Giá khí tự nhiên tại M phiên 31/8 giảm từ mức cao nhất 9 tháng trong phiên trước đó, do dự báo thời tiết mát hơn, song giá khí tự nhiên có tháng tăng mạnh nhất kể từ năm 2009 bởi xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng tăng.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn New York giảm 2,7 US cent tương đương 1% xuống 2,63 USD/mmBTU, trong phiên trước đó giá khí tự nhiên đạt 2,743 USD/mmBTU – cao nhất kể từ đầu tháng 11/2019.
Tuy nhiên, tính chung cả tháng giá khí tự nhiên tăng 46% - mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 9/2009, được thúc đẩy bởi xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng tăng và lo ngại về cơn bão nhiệt đới.
Kim loại quý: Giá vàng giảm 0,3%
Giá vàng thế giới đi lên trong phiên 31/8, do đồng USD giảm xuống mức thấp nhất hai năm và chính sách ôn hòa của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của tháng Tám, giá vàng giao ngay tăng 0,2%, lên 1.967,68 USD/ounce, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 19/8 là 1.976,14 USD/ounce vào đầu phiên. Tính chung cả tháng qua, giá vàng giao ngay giảm 0,3%, dù cho đã leo lên mức cao nhất từ trước tới nay là 2.072,49 USD/ounce vào phiên 7/8.
Trong khi đó, giá vàng giao sau tăng 0,2% trong phiên này, lên 1.978,60 USD/ounce.
Người sáng lập công ty tư vấn Circle Squared Alternative Investments, Jeffrey Sica, nhận định rằng, đồng USD yếu hơn và dự đoán rằng đồng tiền này sẽ còn yếu hơn nữa đã giúp vàng đi lên.
Phiên này, đồng bạc xanh đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai năm, do áp lực của chính sách lạm phát mục tiêu trung bình mới nhất của Fed, cho phép duy trì tỷ lệ lãi sất ở mức thấp ngay cả khi lạm phát tăng một chút trong tương lai.
Chuyên gia phân tích cao cấp Jim Wyckoff của Kitco Metals cho biết, hiện các nhân tố rủi ro đã giảm bớt trên thị trường toàn cầu, qua đó hạn chế phần nào nhu cầu tìm tới những “nơi trú ẩn an toàn”.
Giá vàng đã tăng khoảng 29% trong năm nay, hỗ trợ bởi sự bất ổnkinh tế bắt nguồn từ đại dịch COVID-19, cũng như cuộc bầu cử sắp tới tại Mỹ.
Về những kim loại quý khác, hy vọng về một số khởi sắc trong hoạt động kinh tế, trong bối cảnh các phương pháp điều trị COVID-19 đang có những tiến triển khả quan, cũng thúc đẩy nhu cầu bạc, vốn được vừa được xem là kim loại quý vừa là kim loại công nghiệp. Trong tháng 8/2020, giá bạc tăng 18%.
Chốt phiên 31/8, trên sàn Comex, giá bạc giao tháng 12/2020 tăng 2,7%, lên 28,23 USD/ounce; giá palađi tăng 1,7%, lên 2.243,17 USD/ounce; trong khi giá bạch kim giao tháng 10/2020 giảm 0,3%, xuống 937,90 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá quặng sắt tăng tháng thứ 6 liên tiếp
Giá đồng tại Thượng Hải tăng tháng thứ 5 liên tiếp - chuỗi tăng dài nhất 11 năm, do virus corona ảnh hưởng đến sự phục hồi nền kinh tế Trung Quốc.
Phiên cuối tháng, giá đồng kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 0,5% lên 51.980 CNY (7.584,22 USD)/tấn. Tính chung cả tháng, giá đồng tăng 0,6% và có chuỗi tăng hàng tháng dài nhất kể từ tháng 8/2009. Tuy nhiên, giá đồng trong tháng 8/2020 tại Thượng Hải tăng ít nhất kể từ tháng 10/2019, do hoạt động xây dựng chậm lại bởi thời tiết mùa hè trong tháng 7 và tháng 8/2020 tại Trung Quốc nóng và ẩm,
Hoạt động xây dựng và cơ sở hạ tầng tại Trung Quốc tăng mạnh, được thúc đẩy bởi chương trình kích thích kinh tế của chính phủ, cũng như sự phục hồi trong sản xuất thúc đẩy nhu cầu đồng tại nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Hoạt động sản xuất tại Trung Quốc – nước tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới – tăng hàng tháng kể từ tháng 3/2020, sau khi giảm kỷ lục trong tháng 2/2020 do virus corona bùng phát.
Hoạt động nhà máy của Trung Quốc tăng chậm hơn trong tháng 8/2020, do lũ lụt khu vực tây nam của nước này làm gián đoạn hoạt động sản xuất, song lĩnh vực dịch vụ tăng vững thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục hồi phục từ cú sốc virus corona.
Đồng thời, giá nickel tại Thượng Hải đạt 121.550 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 15/11/2019. Tính chung cả tháng, giá nickel tăng 9,3% - tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 8/2019.
Thị trường London đóng cửa cho ngày nghỉ lễ. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London kết thúc tháng 8/2020 tăng 4% - tháng tăng thứ 5 liên tiếp.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng hơn 4% trong phiên cuối tháng và kế thúc tháng 8 tăng tháng thứ 6 liên tiếp do kỳ vọng nhu cầu thép sẽ vẫn vững bởi nhu cầu xây dựng tăng mạnh.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 2,6% lên 844,5 CNY (123,16 USD)/tấn, trong phiên có lúc tăng 4,5%. Tính chung cả tháng, giá quặng sắt tăng 9,3%.
Trên sàn Thượng Hải giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 1,3% lên 15.320 CNY/tấn; thép cây kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 1,7% lên 3.762 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng kỳ hạn tháng 10/2020 tăng 1,7% lên 3.988 CNY/tấn.
Xuất khẩu thép của Ấn Độ trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 7/2020 tăng gấp đôi lên mức cao nhất trong ít nhất 6 năm, được thúc đẩy bởi nhu cầu mua vào của Trung Quốc, bất chấp căng thẳng giữa Bắc Kinh và New Delhi gia tăng.
Nông sản: Giá ngũ cốc tăng
Giá đậu tương tại Mỹ trong phiên cuối tháng đạt mức cao nhất hơn 2 năm do thời tiết khô tại một số khu vực Trung Tây nước Mỹ, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 3 US cent lên 9,53-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 9,66-3/4 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 6/2018; ngô kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 1-1/2 US cent xuống 3,57-3/4 USD/bushel, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 16/3/2020; lúa mì mềm đỏ, vụ đông kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 3-1/2 US cent lên 5,52-1/4 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 20/4/2020.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn ICE tăng 31 USD tương đương 1,2% lên 2.654 USD/tấn, cao nhất 7 tháng. Giá ca cao tăng bất chấp nguồn cung toàn cầu dồi dào do nhu cầu giảm trong đại dịch virus corona.
Tổ chức Ca cao Quốc tế (ICCO) điều chỉnh dự báo dư thừa ca cao toàn cầu năm 2019/20 ở mức 42.000 tấn, thay vì dự báo trước đó thiếu hụt 80.000 tấn.
Giá cao su tại Osaka phiên 31/8 tăng lên mức cao nhất 7 tháng, sau khi sản lượng nhà máy của Nhật Bản trong tháng 7/2020 tăng nhanh kỷ lục và Warren Buffet đầu tư vào các công ty thương mại Nhật Bản đã thúc đẩy xu hướng thị trường. Cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Osaka tăng 8,5 JPY tương đương 4,6% lên 194,5 JPY/kg, cao nhất kể từ cuối tháng 1/2020; cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 185 CNY lên 12.810 CNY/tấn.
Sản lượng nhà máy của Nhật Bản trong tháng 7/2020 tăng nhanh kỷ lục, được thúc đẩy bởi lĩnh vực ô tô và phụ tùng ô tô, dấu hiệu cho thấy sự phục hồi dần từ đại dịch virus corona.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá 31/7

Giá 28/8

28/8 so với 27/8

28/8 so với 27/8 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,27

42,85

+0,24

+0,56%

Dầu Brent

USD/thùng

43,52

45,57

+0,29

+0,64%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.880,00

30.430,00

-190,00

-0,62%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,80

2,65

+0,02

+0,87%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

117,11

127,61

-3,94

-3,00%

Dầu đốt

US cent/gallon

122,40

119,61

-2,01

-1,65%

Dầu khí

USD/tấn

365,00

362,50

+0,50

+0,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.230,00

43.350,00

-30,00

-0,07%

Vàng New York

USD/ounce

1.985,90

1.976,00

-2,60

-0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.721,00

6.714,00

+26,00

+0,39%

Bạc New York

USD/ounce

24,22

28,48

-0,12

-0,42%

Bạc TOCOM

JPY/g

81,80

95,80

+0,80

+0,84%

Bạch kim

USD/ounce

905,13

935,63

+3,90

+0,42%

Palađi

USD/ounce

2.090,77

2.245,77

-0,61

-0,03%

Đồng New York

US cent/lb

286,80

305,10

-1,05

-0,34%

Đồng LME

USD/tấn

6.413,00

6.667,00

+46,00

+0,69%

Nhôm LME

USD/tấn

1.713,50

1.800,00

+19,00

+1,07%

Kẽm LME

USD/tấn

2.318,50

2.515,00

+29,50

+1,19%

Thiếc LME

USD/tấn

17.897,00

17.850,00

+40,00

+0,22%

Ngô

US cent/bushel

327,00

353,00

-4,75

-1,33%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

531,25

549,25

-3,00

-0,54%

Lúa mạch

US cent/bushel

271,50

275,25

+0,25

+0,09%

Gạo thô

USD/cwt

11,60

12,21

-0,15

-1,21%

Đậu tương

US cent/bushel

892,50

943,75

-9,75

-1,02%

Khô đậu tương

USD/tấn

297,30

309,30

-3,20

-1,02%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,76

32,70

-0,16

-0,49%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

491,50

496,60

-1,60

-0,32%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.400,00

2.654,00

+31,00

+1,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,95

129,05

+2,70

+2,14%

Đường thô

US cent/lb

12,64

12,66

+0,06

+0,48%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

121,75

116,80

-1,15

-0,98%

Bông

US cent/lb

62,66

65,16

+0,08

+0,12%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

585,80

747,50

-19,00

-2,48%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,70

144,30

+1,50

+1,05%

Ethanol CME

USD/gallon

1,11

1,38

+0,09

+6,98%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg