Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục biến động trái chiều với biên độ giao động hẹp, bất chấp sự sụt giảm về dự trữ dầu thô của Mỹ, do giới đầu tư vẫn quan ngại rằng diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 tiếp tục hạn chế nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ trên toàn cầu.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 24 US cent lên 52,85 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giảm 10 US cent xuống 55,81 USD/thùng.
Đà đi lên của giá dầu WTI trong phiên này được hỗ trợ với lập trường chính sách ôn hòa của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Trong cuộc họp chính sách mới nhất, các quan chức của Fed cho biết, ngân hàng này sẽ duy trì mức lãi suất cho vay ở mức gần 0% và cam kết tiếp tục tăng cường mua trái phiếu chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế đối phó với tác động của đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Số ca mắc COVID-19 trên toàn cầu tiếp tục tăng, đã vượt qua con số 100 triệu, nhất là tại châu Âu và châu Mỹ, trong khi châu Á đang nỗ lực để ngăn chặn các đợt bùng phát dịch mới. Điều này đã tạo áp lực giảm lên giá dầu khi triển vọng tiêu thụ dầu trở nên u ám hơn.
Dịch COVID-19 ở Trung Quốc gần đây đã bùng phát trở lại. Dữ liệu chính thức của Trung Quốc cho thấy, 75 trường hợp mắc COVID-19 mới được xác nhận tại nước này vào ngày 27/1, mức tăng hàng ngày thấp nhất kể từ ngày 11/1.
Theo các nhà phân tích, giá dầu trong thời gian tới có thể được hưởng lợi từ việc sản lượng dầu của Mỹ giảm do các quy định ngành chặt chẽ hơn của chính quyền tân Tổng thống Joe Biden. Ngày 27/1, Chính phủ Mỹ đã tạm tạm dừng các hợp đồng thuê dầu khí mới trên đất liên bang và cắt giảm trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, khi ông Biden quyết tâm theo đuổi các chính sách xanh.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng gần 4% lên mức cao nhất 5 tuần, sau dự báo thời tiết lạnh hơn và nhu cầu sưởi ấm trong 2 tuần tới cao hơn so với dự báo trước đó. Cụ thể, khí tự nhiên kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn New York tăng 10,4 US cent tương đương 3,9% lên 2,760 USD/mmBTU – cao nhất kể từ ngày 22/12/2020; khí tự nhiên kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 6 US cent lên 2,7 USD/mmBTU.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần sau cuộc họp của Fed, giữa bối cảnh đồng USD tăng trở lại mức cao nhất trong hơn một tuần qua, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn cho các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.845,61 USD/ounce, trong phiên có lúc giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 18/1; giá vàng kỳ hạn tháng 2/2021 giảm 0,6% xuống 1.844,90 USD/ounce.
Kết thúc cuộc họp hai ngày 26-27/1 Fed cam kết sẽ duy trì mức lãi suất cho vay ở mức gần 0% và tiếp tục tăng cường mua trái phiếu chính phủ để hỗ trợ nền kinh tế đối phó với tác động của đại dịch COVID-19. Chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ có xu hướng ảnh hưởng mạnh tới lãi suất trái phiếu chính phủ, và sẽ làm tăng sự hấp dẫn của vàng.
Chuyên gia thị trường cao cấp Bob Haberkorn của RJO Futures cho rằng, trước thời điểm Ủy ban Thị trường mở của Fed đưa ra thông báo, thị trường cổ phiếu giảm thấp và đồng USD bắt đầu hồi phục một chút, và điều này tạo áp lực đè nặng lên thị trường vàng. Ông Haberkorn nhận định rằng gói cứu trợ 1.900 tỷ USD là khá tham vọng và ông không nghĩ Tổng thống Mỹ Joe Biden nhận được sự hỗ trợ đủ để thông qua khoản cứu trợ lớn này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,4% xuống 25,35 USD/ounce, bạch kim giao ngay giảm 2,3% xuống 1.072,57 USD/ounce, trong khi palađi giảm 0,9% xuống 2.304,39 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết giảm. Trên sàn LME, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 2,4% xuống 7.820 USD/tấn. Dự kiến giá đồng sẽ giảm trong những tháng tới, do nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – giảm và nguồn cung tăng.
Giá kẽm giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tháng do tồn trữ tăng mạnh, thúc đẩy dư cung khi nhu cầu Trung Quốc giảm. Kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,7% xuống 2.584 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 5/11/2020. Tồn trữ kẽm tại London trong 2 ngày qua tăng 57% lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2017. Đồng thời, Citi dự báo thị trường kẽm sẽ dư thừa 70.000 tấn trong năm nay.
Trong khi đó, giá thiếc giảm 0,4% xuống 22.770 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 22.940 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 7/2014.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm, do lo ngại các nhà máy thép giảm sản lượng bởi chi phí sản xuất tăng cao và nhu cầu suy yếu. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Đại Liên giảm 0,2% xuống 1.041,5 CNY (161,11 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tuần (1.015,5 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch; quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 163,2 USD/tấn; quặng sắt 62% Fe giao ngay nhập khẩu vào Trung Quốc trong phiên 25/1 chạm 167,5 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 4/1/2021, theo thông tin từ SteelHome.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,4% và thép cuộn cán nóng tăng 1,8%, trong khi thép không gỉ giảm 0,9%.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì tại Mỹ giảm 1%, do hoạt động bán ra chốt lời bởi đồng USD tăng và thị trường chứng khoán phố Wall suy giảm; giá đậu tương tăng, trong khi giá ngô cao nhất hơn 7 năm.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 7 US cent xuống 6,58-1/4 USD/bushel. Trong khi đó, giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 1-3/4 US cent lên 5,34 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,43-3/4 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 6/2013. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 4-1/2 US cent lên 13,74-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 0,06 US cent lên 15,8 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 0,2 USD lên 444,2 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia phiên vừa qua tăng 3,6%, tiếp đà tăng của phiên trước đó do các nhà đầu tư đẩy mạnh mua vào trước kỳ nghỉ lễ. Dầu cọ kỳ hạn tháng 4/2021 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 119 ringgit tương đương 3,6% lên 3.385 ringgit (837,04 USD)/tấn, đóng cửa phiên trước đó, giá dầu cọ tăng 0,7%.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE tăng 1US cent tương đương 0,8% lên 1,255 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn London tăng 1 USD tương đương 0,1% lên 1.318 USD/tấn. Giá cà phê Arabica được hỗ trợ bởi lo ngại về sản lượng vụ thu hoạch 2021/22 tại Brazil suy giảm.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng từ mức thấp nhất 3 tuần do giảm bớt lo ngại về các trường hợp nhiễm Covid-19 tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc và số liệu kinh tế tích cực của Trung Quốc.
Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn Osaka tăng 5,2 JPY tương đương 2,3% lên 229,3 JPY (2,2 USD)/kg, trong đầu phiên giao dịch giá cao su chạm 222,1 JPY/kg – thấp nhất kể từ ngày 4/1/2021; cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 65 CNY lên 14.310 CNY (2.212 USD)/tấn. Lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc tăng tháng thứ 8 liên tiếp trong tháng 12/2020, điều này cho thấy sự phục hồi vững chắc khi lĩnh vực sản xuất tăng từ sự suy giảm của Covid-19.
Giá hàng hóa thế giới sáng 28/1/2021

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,70

-0,15

-0,28%

Dầu Brent

USD/thùng

55,59

-0,22

-0,39%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.110,00

-140,00

-0,40%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,76

+0,10

+3,92%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

157,31

-0,40

-0,25%

Dầu đốt

US cent/gallon

160,74

-0,15

-0,09%

Dầu khí

USD/tấn

452,75

-3,25

-0,71%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.200,00

-50,00

-0,10%

Vàng New York

USD/ounce

1.839,40

-9,50

-0,51%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.169,00

-7,00

-0,11%

Bạc New York

USD/ounce

25,13

-0,26

-1,02%

Bạc TOCOM

JPY/g

84,80

-0,20

-0,24%

Bạch kim

USD/ounce

1.066,69

-1,99

-0,19%

Palađi

USD/ounce

2.310,08

-0,85

-0,04%

Đồng New York

US cent/lb

354,60

-1,15

-0,32%

Đồng LME

USD/tấn

7.825,00

-183,50

-2,29%

Nhôm LME

USD/tấn

1.992,00

-28,00

-1,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.583,50

-73,00

-2,75%

Thiếc LME

USD/tấn

22.805,00

-45,00

-0,20%

Ngô

US cent/bushel

533,00

-1,00

-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

652,25

-6,00

-0,91%

Lúa mạch

US cent/bushel

352,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

13,48

+0,02

+0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.376,50

+1,75

+0,13%

Khô đậu tương

USD/tấn

436,60

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

44,62

+0,10

+0,22%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

557,30

+0,40

+0,07%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.504,00

-41,00

-1,61%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

125,50

+1,00

+0,80%

Đường thô

US cent/lb

15,80

+0,06

+0,38%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

114,30

-1,90

-1,64%

Bông

US cent/lb

80,31

-0,53

-0,66%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

865,00

+9,90

+1,16%

Cao su TOCOM

JPY/kg

156,90

-1,80

-1,13%

Ethanol CME

USD/gallon

1,66

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg