Tỷ giá USD trong nước
Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với đô la Mỹ ở mức: 23.241 VND/USD (tăng 5 đồng so với hôm qua). Tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN hiện mua vào ở mức 23.175 VND/USD và bán ra ở mức 23.650 VND/USD (không đổi).
Với biên độ 3% được qui định, hiện tỷ giá USD các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép giao dịch từ 22.544 - 23.934 VND/USD. Tại các ngân hàng thương mại trong nước hôm nay giá mua - bán USD được công bố như sau: Ngân hàng Vietcombank giá USD được niêm yết 23.300 – 23.510 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 40 đồng so với hôm qua ở cả 2 chiều mua bán. Ngân hàng ACB niêm yết 23.355 - 23.525 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 15 giá mua và tăng 5 đồng giá bán. Đông Á niêm yết 23.360 - 23.500 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 20 đồng ở cả 2 chiều mua bán.
Ngân hàng Quốc tế - VIB niêm yết 23.330 - 23.530 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi cả 2 chiều mua bán.
Sacombank niêm yết 23.325 - 23.505 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 15 đồng cả giá mua và giá bán.
Tại Vietinbank, niêm yết 23.315 - 23.505 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 21 đồng cả 2 chiều mua bán. BIDV niêm yết 23.335 - 23.515 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 30 đồng cả 2 chiều mua bán.
Giá USD tự do niêm yết ở mức mua vào 23.530 đồng/USD và bán ra 23.630 đồng/USD, không đổi so với hôm qua.
Bảng so sánh tỷ giá ngoại tệ mới nhất hôm nay cập nhật lúc 15h có 6 ngoại tệ tăng giá, 9 giảm giá mua vào. Chiều tỷ giá bán ra có 10 ngoại tệ tăng giá và 13 ngoại tệ giảm giá.
Tỷ giá ngoại tệ 17/4/2020
ĐVT: đồng

Tên ngoại tệ

Mã ngoại tệ

Mua Tiền mặt

Mua chuyển khoản

Bán ra

Đô la Úc

AUD

14.620,35 (+127,57)

14.721,36 (+128,30)

15.161,80 (+130,59)

Đô la Canada

CAD

16.416,88 (+77,23)

16.526,10 (+76,11)

16.870,08 (+52,12)

Franc Thuỵ Sĩ

CHF

23.594,53 (-39,82)

23.973,95 (-51,54)

24.286,03 (-45,03)

Nhân Dân Tệ

CNY

3.244,74 (-4,44)

3.264,13 (-4,37)

3.370,82 (-4,51)

Krone Đan Mạch

DKK

0

3.359,66 (-5,40)

3.522,54 (-5,33)

Euro

EUR

25.149,76 (-45,82)

25.257,36 (-45,85)

25.844,53 (-103,02)

Bảng Anh

GBP

28.826,60 (-5,14)

29.032,61 (-3,71)

29.530,39 (-6,91)

Đô la Hồng Kông

HKD

2.824,95 (-2,83)

2.979,22 (-3,05)

3.073,09 (-2,47)

Rupee Ấn Độ

INR

0

305,30 (+0,45)

317,14 (+0,33)

Yên Nhật

JPY

212,67 (-0,29)

214,54 (-0,04)

219,60 (-0,19)

Won Hàn Quốc

KRW

17,12 (+0,12)

18,25 (+0,09)

20,58 (+0,10)

Kuwaiti dinar

KWD

0

75.155,16 (-607,85)

78.070,07 (-664,94)

Ringit Malaysia

MYR

5.011,82 (-17,91)

5.283,30 (+4,26)

5.540,48 (-1,36)

Krone Na Uy

NOK

0

2.204,50 (+27,80)

2.320,23 28,95)

Rúp Nga

RUB

0

303,03 (+4,61)

361,13 (+5,34)

Rian Ả(-Rập(-Xê(-Út

SAR

0

6.220,43 (-6,31)

6.461,69 (-9,31)

Krona Thuỵ Điển

SEK

0

2.294,45 (+6,15)

2.409,16 (+6,28)

Đô la Singapore

SGD

16.212,45 (+28,61)

16.311,12 (+28,80)

16.628,43 (+27,96)

Bạc Thái

THB

661,78 (+1,87)

704,20 (+3,81)

745,82 (+2,21)

Đô la Mỹ

USD

23.332,50 (-13,88)

23.346,25 (-17,62)

23.517,50 (-15,12)

Kip Lào

LAK

0

2,27 0

2,58

Ðô la New Zealand

NZD

13.849,50 (+84)

13.925 (+79,60)

14.225 (+76,67)

Đô la Đài Loan

TWD

705,45 (-0,81)

781,25

822,58 (-0,46)

 

Ind

0

1,53

0

Riêl Campuchia

KHR

0

5

5

Peso Philippin

PHP

0

454

483 (-1)

 

ZAR

0

1.589

1.995

Tỷ giá USD thế giới tăng
USD Index tăng 0,65% lên 100,130 điểm vào lúc 6h50 (giờ Việt Nam). Tỷ giá euro so với USD tăng 0,23% lên 1,0860. Tỷ giá đồng bảng Anh so với USD tăng 0,26% lên 1,2487. Tỷ giá USD so với yen Nhật giảm 0,02% xuống 107,92.
Ngày 16/4, tỷ giá USD đã đạt mức cao nhất trong một tuần khi các nhà đầu tư chuyển hướng sang các tài sản an toàn trong bối cảnh dữ liệu thất nghiệp hàng tuần của Mỹ cao kỉ lục với 22 triệu người đã phải nộp đơn xin trợ cấp vào tháng trước. Đây là số lượng người thất nghiệp lớn nhất kể từ cuộc đại suy thoái những năm 1930. Việc các doanh nghiệp bắt buộc phải đóng cửa trên toàn quốc nhằm mục đích ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19 đã gây tổn hại cho nền kinh tế Mỹ.
Tuần này, chính phủ Mỹ tuyên bố trợ cấp thất nghiệp nhà nước ở mức 5,25 triệu người trong tuần kết thúc vào ngày 11/4, giảm 1,37 triệu so với tuần trước đó.
Sự suy thoái kinh tế ngày càng sâu sắc cũng được khuếch đại bởi các dữ liệu khác. Báo cáo hoạt động sản xuất ở các tiểu bang Trung - Đại Tây Dương đã giảm xuống mức đấy kể từ năm 1980 và dữ liệu về xây dựng trong tháng 3 giảm mạnh nhất trong 36 năm. Ngoài ra, dữ liệu nhà máy và bán lẻ của Mỹ và giá dầu có mức tăng thấp nhất trong 18 năm qua cũng phần nào hỡ trợ đồng bạc xanh.
Joe Manimbo, chuyên gia phân tích thị trường cao cấp của Western Union Business Solutions, cho biết đồng USD đã tăng giá tốt hơn trong tuần này khi các báo cáo cho thấy con đường phục hồi kinh tế còn rất dài và đầy bất ổn. Đồng bạc xanh đã tăng mạnh trong cuộc khủng hoảng khi thu hút sự đầu tư của giới giao dịch, mặc dù trước đó USD đã giảm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa ra một loạt các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế.
Trong khi đó, đồng euro suy yếu khi thỏa thuận trị giá 500 triệu euro giữa các chính phủ khu vực liên minh châu Âu để hỗ trợ các nước chịu ảnh hưởng từ COVID-19 được coi là không đủ, đặc biệt là đối với Italia. Đồng yen Nhật cũng gặp trở ngại khi Nhật Bản tuyên bố tình trạng khẩn cấp toàn quốc. Bên cạnh đó, tỷ giá USD cũng tăng so với các loại tiền tệ rủi ro hơn như đô la Úc và New Zealand, theo Reuters.

Nguồn: VITIC