Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 6/2019 đạt 21.428 triệu USD, thấp hơn 172 triệu USD so với số ước tính, trong đó xăng dầu thấp hơn 70 triệu USD; giày dép thấp hơn 64 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ thấp hơn 44 triệu USD; rau quả thấp hơn 40 triệu USD; hóa chất thấp hơn 38 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện thấp hơn 29 triệu USD; dệt may cao hơn 30 triệu USD; sắt thép cao hơn 68 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7/2019 ước tính đạt 22,60 tỷ USD, tăng 5,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,99 tỷ USD, tăng 2,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,61 tỷ USD, tăng 6,9%. Một số mặt hàng xuất khẩu trong tháng 7/2019 có kim ngạch tăng so với tháng trước: Hàng dệt may tăng 12,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 6,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 4,3%; giày dép tăng 3,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Bảy tăng 9,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,4%. Một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị tăng khá: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 19%; giày dép tăng 15,9%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 15,4%; hàng dệt may và máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cùng tăng 11,2%.
Tính chung 7 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 145,13 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 44 tỷ USD, tăng 12,2%, chiếm 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 101,13 tỷ USD, tăng 5,6%, chiếm 69,7% (tỷ trọng giảm 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Trong 7 tháng năm 2019 có 24 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 88,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD, chiếm 51,6%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 27,3 tỷ USD, chiếm 18,8% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 18,6 tỷ USD, tăng 14,9%; hàng dệt may đạt 18,3 tỷ USD, tăng 10,5%; giày dép đạt 10,4 tỷ USD, tăng 13,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9,7 tỷ USD, tăng 7,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,7 tỷ USD, tăng 16,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,9 tỷ USD, tăng 5,9%; thủy sản đạt 4,6 tỷ USD, giảm 1,9%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 7 tháng năm 2019 giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 2,3 tỷ USD, giảm 0,3%; cà phê đạt 1,8 tỷ USD, giảm 18,7% (lượng giảm 7,6%); hạt điều đạt gần 1,8 tỷ USD, giảm 11% (lượng tăng 13,8%); gạo đạt 1,7 tỷ USD, giảm 14% (lượng tăng 0,8%). Riêng cao su đạt 1,1 tỷ USD, tăng 4,4% (lượng tăng 8,2%) và hạt tiêu đạt 528 triệu USD, tăng 1,9% (lượng tăng 35,1%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 7 tháng năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 32,5 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 24,3 tỷ USD, tăng 0,4%; Trung Quốc đạt 20 tỷ USD, tăng 0,1%; thị trường ASEAN đạt 15,2 tỷ USD, tăng 5,5%; Hàn Quốc đạt 10,7 tỷ USD, tăng 4,4%.

Nguồn: VITIC/Tổng cục Thống kê