Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do có thông tin tích cực về đàm phán thương mại Mỹ-Trung, rằng hai nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể sớm đạt được thỏa thuận tạm thời để chấm dứt cuộc chiến thương mại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 26 US cent, tương đương 0,4%, lên 63,65 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 24 US cent, tương đương 0,4%, lên 58,01 USD/thùng.
Chuyên gia phân tích thị trường cấp cao thuộc OANDA Craig Erlam cho rằng giá dầu ổn định một cách đáng ngạc nhiên trong phiên giao dịch ngày 25/11, mặc dù mặt hàng này thường khá nhạy cảm với các thông tin về thương mại. Chuyên gia này cho biết giá dầu đã thiếu động lực tăng trong các phiên giao dịch gần đây, mặc dù sự khởi sắc mạnh mẽ vào cuối tuần trước có thể khiến giới đầu tư có phần lạc quan.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi các thị trường tài chính khi các chỉ số S&P 500 và Nasdaq trên Phố Wall tăng lên mức kỷ lục mới trong ngày 25/11. Các chuyên gia phân tích thuộc ngân hàng Barclays dự đoán giá dầu Brent sẽ dao động quanh mức 60 USD/thùng trong hai năm tới.
Trước đó vào ngày 23/11, Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ, ông Robert O’Brien nói rằng Mỹ và Trung Quốc vẫn có thể đạt được một thỏa thuận thương mại sơ bộ vào cuối năm nay.
Nhật báo Global Times của Trung Quốc trong ngày 25/11 dẫn lời các chuyên gia thân cận với Chính phủ Trung Quốc cho biết hai nước đã đạt được đồng thuận lớn về giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận thương mại, mặc dù vẫn còn một số khác biệt về việc dỡ bỏ thuế.
Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 22/11 bày tỏ mong muốn ký kết một thỏa thuận thương mại sơ bộ và kết thúc cuộc chiến thuế quan kéo dài 16 tháng qua khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẽ nhóm họp vào ngày 5/12 tới tại trụ sở ở thành phố Vienna, Áo, sau đó sẽ thảo luận với các nước sản xuất dầu khác trong nhóm OPEC+ do Nga dẫn dắt. OPEC+ được cho là sẽ gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu thô đến giữa năm 2020.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giảm phiên thứ tư liên tiếp xuống mức thấp nhất trong 2 tuần qua do nhu cầu đối với các tài sản rủi ro hơn tăng lên trước tâm lý lạc quan về đàm phán thương mại Mỹ-Trung. Giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.455,87 USD/ounce, trong phiên có lúc chạm 1.453,4 USD/ounce, thấp nhất kể từ ngày 12/11/2019; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,5% xuống 1.456,9 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,6% xuống 16,9 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 1 tuần; palađi tăng 1,3% lên 1.799,04 USD/ounce, đầu phiên giao dịch có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 7/11/2019; bạch kim tăng 0,6% lên 896,75 USD/ounce.
Chiến lược gia về hàng hóa của Saxo Bank, ông Ole Hansen, cho biết các thị trường chứng khoán thế giới vừa khởi sắc một cách thận trọng với dự đoán rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ đạt được thỏa thuận thương mại "Giai đoạn 1", trong khi các kênh đầu tư được xem là an toàn như trái phiếu, đồng yen và vàng lại đồng loạt giảm giá.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng sau bình luận tích cực từ Mỹ và Trung Quốc về tiến triển các cuộc đàm phán thương mại và dự trữ đồng tại London giảm mạnh.
Giá đồng trên sàn London tăng 0,2% lên 5.868 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 5.917 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 12/11/2019. Kim loại cơ bản này đã giảm giá khoảng 20% từ mức cao kỷ lục hồi năm ngoái do tranh chấp thương mại kéo tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu kim loại giảm. Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm 22% xuống 127.850 tấn, thấp nhất kể từ ngày 14/3/2019.
Về các kim loại cơ bản khác giá nhôm giảm 0,2% xuống 1.736 USD/tấn, kẽm giảm 1% xuống 2.281 USD/tấn, nickel giảm 0,6% xuoóng 14.490 USD/tấn, chì giảm 1,6% xuống 1.935 USD/tấn và thiếc tăng 0,7% lên 16.470 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 1 tháng do nguồn cung thắt chặt và thời tiết bất lợi ảnh hưởng đến cây trồng vụ mới, trong khi giá đậu tương giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tháng.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 14-1/2 US cent lên 5,29-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,32-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 21/10/2019; iá ngô kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 1-1/4 US cent lên 3,7 USD/bushel; trong khi đậu tương kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 4-1/2 US cent xuống 8,92-1/2 USD/bushel, thấp nhất kể từ ngày 12/9/2019.
Giá cà phê tăng lên mức cao nhất 1 năm do nguồn cung thắt chặt, trong khi giá đường giảm.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE tăng 1,15 US cent tương đương 1% lên 1,168 USD/lb, trong phiên có lúc đạt 1,1735 USD/lb, cao nhất 1 năm. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London tăng 14 USD tương đương 1% lên 1.416 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,01 US cent tương đương 0,1% xuống 12,82 US cent/lb, chỉ dưới mức cao đỉnh điểm (12,87 US cent/lb) trong phiên trước đó. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London tăng 2,2 USD tương đương 0,65% lên 342,1 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm từ mức cao nhất 2 năm của phiên trước do xuất khẩu suy giảm, song giá dầu thực vật khác trên sàn Đại Liên tăng và đồng ringgit giảm đã hạn chế đà suy giảm giá dầu cọ. Dầu cọ kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 0,2% xuống 2.744 ringgit (658,03 USD)/tấn, trong phiên trước đó đạt 2.755 ringgit/tấn.
Giá cao su tại Tokyo tăng theo xu hướng giá trên sàn Thượng Hải. Cao su kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM tăng 0,6 JPY (0,0055 USD) lên 187,6 JPY/kg; cao su TSR20 kỳ hạn tháng 5/2020 ở mức 149,1 JPY/kg. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 105 CNY (14,92 USD) lên 12.800 CNY/tấn; cao su TSR20 tăng 45 CNY lên 10.865 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,01

+0,24

+0,4%

Dầu Brent

USD/thùng

63,65

+0,26

+0,4%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.720,00

+70,00

+0,18%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,52

-0,01

-0,51%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,66

+0,18

+0,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

194,35

-0,08

-0,04%

Dầu khí

USD/tấn

585,50

+2,75

+0,47%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

167,66

+0,18

+0,11%

Vàng New York

USD/ounce

1.460,00

-3,80

-0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.088,00

-8,00

-0,16%

Bạc New York

USD/ounce

16,97

-0,06

-0,38%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,10

-0,20

-0,34%

Bạch kim

USD/ounce

896,50

-0,87

-0,10%

Palađi

USD/ounce

1.803,90

+7,26

+0,40%

Đồng New York

US cent/lb

266,15

-0,05

-0,02%

Đồng LME

USD/tấn

5.868,00

+13,00

+0,22%

Nhôm LME

USD/tấn

1.736,00

-3,00

-0,17%

Kẽm LME

USD/tấn

2.281,00

-24,00

-1,04%

Thiếc LME

USD/tấn

16.470,00

+120,00

+0,73%

Ngô

US cent/bushel

379,00

-1,75

-0,46%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

530,75

-2,25

-0,42%

Lúa mạch

US cent/bushel

320,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,20

+0,01

+0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

893,75

+1,25

+0,14%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,90

+0,30

+0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,64

+0,05

+0,16%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

459,40

-4,90

-1,06%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.598,00

-19,00

-0,73%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,90

+3,25

+2,81%

Đường thô

US cent/lb

12,82

-0,01

-0,08%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,55

+1,40

+1,43%

Bông

US cent/lb

65,80

+0,95

+1,46%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

421,30

+10,90

+2,66%

Cao su TOCOM

JPY/kg

187,30

-0,30

-0,16%

Ethanol CME

USD/gallon

1,45

+0,04

+2,62%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg