Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ trong bối cảnh các nhà đầu tư thận trọng trước triển vọng nhu cầu yếu trong khi các nước sản xuất dầu có thể xem xét khả năng gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu mỏ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 7/2019 tăng 0,01 USD lên 53,27 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao tháng 8/2019 ổn định ở mức 62,29 USD/thùng.
Giá dầu chịu áp lực giảm sau khi dự trữ dầu thô Mỹ bất ngờ tăng 4,9 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 7/6/2019 lên 482,8 triệu thùng, Viện Dầu mỏ Mỹ cho biết. Đồng thời Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cắt giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới năm 2019 thêm 160.000 thùng/ngày xuống 1,22 triệu thùng/ngày.
Trong báo cáo Triển vọng Năng lượng Ngắn hạn công bố ngày 11/6/2019, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới trong năm 2019 bớt 0,2 triệu thùng/ngày xuống còn 1,2 triệu thùng/ngày. Báo cáo này cho hay Chính phủ Mỹ đang hạ mức dự báo giá dầu Brent trong năm 2019 xuống còn 67 USD/thùng, thấp hơn 3 USD so với ước tính hồi tháng 5/2019.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và một số nước sản xuất dầu ngoài OPEC trong đó có Nga đã cắt giảm sản lượng kể từ đầu năm 2019 nhằm cân bằng cán cân cung cấp của thị trường dầu mỏ và hỗ trợ giá “vàng đen”.
Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabian (A-rập Xê-út) Khalid al-Falih ngày 10/6 cho biết Nga là nước xuất khẩu duy nhất vẫn chưa quyết định về việc liệu các nước sản xuất dầu chủ chốt có nên gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng hay không. Theo ông al-Falih, các nước sản xuất dầu cần ngăn chặn giá dầu giảm, điều có thể tác động tiêu cực tới cả các nhà sản xuất và khách hàng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do chứng khoán Mỹ và đồng USD cùng giảm. Kết thúc phiên, vàng giao ngay giảm nhẹ xuống 1.327,41 USD/ounce; vàng giao tháng 8/2019 tăng 1,9 USD, tương đương 0,14%, lên 1.331,20 USD/ounce.
Thị trường chứng khoán Phố Wall (Mỹ) giảm điểm trong phiên vừa qua sau khi tăng mạnh trong phiên giao dịch trước đó. Khi thị trường chứng khoán đi xuống, giá vàng giao kỳ hạn thường tăng nhờ vai trò là kênh đầu tư an toàn. Ngoài ra, giá vàng còn nhận được sự hỗ trợ từ đồng USD giảm giá. Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị đồng USD so với một giỏ gồm 6 đồng tiền chủ chốt khác, giảm 0,07% xuống còn 96,70. Giá vàng và đồng USD thường biến động trái chiều. Khi đồng USD giảm giá thì giá vàng giao kỳ hạn sẽ tăng vì vàng, được định giá bằng USD, sẽ trở nên “rẻ” hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ những đồng tiền khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 7/2019 tăng 10,1 xu Mỹ, tương đương 0,69%, lên 14,74 USD/ounce khi đóng cửa. Trong khi đó, giá bạch kim giao tháng 7/2019 tăng 9,10 USD, tương đương 1,13%, lên 814,30 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất 2 tuần, được nâng đỡ bởi kỳ vọng nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – sẽ thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, khiến nhu cầu đồng tăng mạnh. Giá đồng kỳ hạn trên sàn London chốt phiên tăng 2 USD đạt 5.876 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 5.956 USD/tấn, cao nhất 2 tuần.
Tin về việc Trung Quốc sẽ cho phép chính quyền địa phương sử dụng tiền thu được từ trái phiếu đặc biệt làm vốn cho các dự án đầu tư, sau khi Mỹ và Mexico đạt thỏa thuận hôm thứ sáu (7/6/2019) nhằm ngăn chặn thuế quan của Mỹ đối với hàng hóa Mexico, đã hỗ trợ giá đồng.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng 6%, do dự kiến các công ty khai thác quặng lớn sẽ không thể mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu tăng cao, trong khi sản lượng thép vẫn duy trì ở mức cao trong những tháng tới.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng 6% lên 760,5 CNY (109,97 USD)/tấn. Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng 3,5% lên 3.833 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng tăng 2,7% lên 3.655 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê giảm phiên thứ 3 liên tiếp, do các thương nhân thanh lý các hợp đồng kỳ hạn đã hết hiệu lực, trong khi giá đường tăng. Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn ICE giảm 1,6 US cent tương đương 1,6% xuống 97 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 96,85 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 29/5/2019. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 27 USD tương đương 1,9% xuống 1.388 USD/tấn.
Trong khi đó, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn ICE tăng 0,14 US cent tương đương 1,1% lên 12,54 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE tăng 2,1 USD tương đương 0,6% lên 335,8 USD/tấn.
Giá ngô tại Mỹ tăng cao nhất 1 tuần, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ cắt giảm năng suất ngô nhiều hơn so với ước tính do tiến độ trồng trọt trong vụ xuân này bị chậm lại.
Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 2,5% lên 4,27-3/4 USD/bushel, cao nhất 1 tuần. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 2,1% lên 5,18 USD/bushel và giá đậu tương giao cùng kỳ hạn trên sàn Chicago tăng 0,1% lên 8,59-1/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng 1% từ mức giảm mạnh 2 phiên liên tiếp, do kỳ vọng lạc quan về số liệu chính thức của ngành công nghiệp vào cuối tuần này. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 0,85% lên 2.011 ringgit (483,12 USD)/tấn, tăng lần đầu tiên trong 3 phiên.
Giá cao su tại Tokyo duy trì ổn định trong bối cảnh không chắc chắn về thương mại Mỹ - Trung, mặc dù giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải tăng mạnh. Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,4 JPY xuống 204,6 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn TOCOM giảm 1% xuống 165,7 JPY/kg.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 140 CNY (20,24 USD) lên 12.470 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,27
|
+0,01
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
62,29
|
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.700,00
|
-760,00
|
-1,93%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,40
|
0,00
|
-0,17%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
173,78
|
-1,85
|
-1,05%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
180,55
|
-1,66
|
-0,91%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
553,50
|
-5,75
|
-1,03%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.530,00
|
-880,00
|
-1,56%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.331,30
|
+0,10
|
+0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.620,00
|
-7,00
|
-0,15%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,74
|
0,00
|
-0,03%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
51,50
|
+0,30
|
+0,59%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
817,48
|
+2,11
|
+0,26%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.396,99
|
+3,29
|
+0,24%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
266,45
|
-0,70
|
-0,26%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.876,00
|
+2,00
|
+0,03%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.778,00
|
+3,00
|
+0,17%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.506,50
|
+30,50
|
+1,23%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.160,00
|
-80,00
|
-0,42%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
427,00
|
-0,75
|
-0,18%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
517,25
|
-0,75
|
-0,14%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
303,00
|
-0,75
|
-0,25%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,58
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
857,75
|
-1,50
|
-0,17%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
312,90
|
-1,50
|
-0,48%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,23
|
+0,01
|
+0,04%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
464,10
|
-1,50
|
-0,32%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.504,00
|
+1,00
|
+0,04%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
99,50
|
-1,65
|
-1,63%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,83
|
+0,13
|
+1,02%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
103,45
|
+1,80
|
+1,77%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,90
|
-0,14
|
-0,22%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
343,30
|
+19,00
|
+5,86%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,30
|
-1,30
|
-0,64%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,52
|
+0,04
|
+2,85%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters