Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khoảng 1% lên mức cao nhất hơn 3 tháng do hy vọng cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung sẽ sớm đi đến hồi kết.
Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 72 US cent (1,07%) lên 67,92 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 57 US cent (0,93%) lên 61,68 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều ghi nhận mức cao nhất kể từ ngày 17/9/2019.
Phát biểu tại cuộc họp báo ngày 26/12, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc, Cao Phong, cho biết nước này vẫn đang liên lạc thường xuyên với Mỹ về việc ký kết thỏa thuận thương mại “Giai đoạn 1”. Theo đó, hai bên vẫn đang tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi ký thỏa thuận.
Triển vọng về một thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đã đẩy chứng khoán Phố Wall lên mức cao mới, qua đó hỗ trợ giá dầu, mặt hàng thường biến động cùng chiều với chứng khoán.
Cuộc chiến thương mại kéo dài 17 tháng giữa Mỹ và Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến đà tăng trưởng của kinh tế toàn cầu cũng như nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ. Dù vậy, giá dầu Brent vẫn tăng 25% trong năm 2019 nhờ chương trình cắt giảm nguồn cung của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh như Nga.
Một nhân tố khác hỗ trợ giá dầu trong phiên này là thống kê từ Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho thấy dự trữ lượng dầu thô của nước này giảm 7,9 triệu thùng trong tuần trước, nhiều hơn so với dự báo của các nhà phân tích.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất gần 2 tháng, song khối lượng giao dịch không nhiều.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.511,13 USD/ounce, sau khi có lúc đạt 1.512,30 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 4/11; vàng kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 0,7% lên 1.514,40 USD/ounce.
Chiến lược gia thị trường của RJO Futures, Alex Turro, dự báo giá vàng có thể tăng lên 1.600 USD/ounce, khi kim loại quý này nhận được hỗ trợ từ hoạt động mua vào của các ngân hàng trung ương và nhu cầu kỹ thuật.
Từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng khoảng 18% và đang trên đà hướng đến năm có mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2010, nhờ cuộc chiến thương mại kéo dài giữa Mỹ và Trung Quốc cũng như tác động của cuộc chiến này đối với nền kinh tế toàn cầu.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm tại Thượng Hải đảo chiều giảm, sau 8 phiên tăng liên tiếp, do nguồn cung tăng và các dấu hiệu cho thấy rằng nhu cầu suy giảm trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán vào tháng tới. Trên sàn Thượng Hải, nhôm kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 1,3% xuống 14.055 CNY(2.008,34 USD)/tấn.
Cuối tháng 12/2019, Tập đoàn Henan Shenhuo Trung Quốc sẽ bắt đầu vận hành dây chuyền sản xuất nhôm có công suất 150.000 tấn mỗi năm trong dự án luyện nhôm tại Wenshan, tỉnh Vân Nam.
Giá đồng tại Thượng Hải tăng phiên thứ 3 liên tiếp, thêm 0,2% lên 49.650 CNY/tấn, trong phiên có lúc đạt 49.940 CNY/tấn, cao nhất 8 tháng do giảm bớt căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Giá chì trên sàn Thượng Hải tăng 0,6% lên 15.215 CNY/tấn, trong phiên có lúc tăng 1,4% lên 15.340 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 29/11/2019.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc và Singapore giảm do hoạt động giao dịch trầm lắng trước kỳ nghỉ Năm mới, trong khi giá thép tăng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,7%, thép cuộn cán nóng tăng 0,4% song giá thép không gỉ hầu như không thay đổi.
Trung Quốc – nước sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất thế giới – đang lên kế hoạch đầu tư 800 tỷ CNY vào đường sắt, 1,8 nghìn tỷ CNY cho cơ sở hạ tầng đường cao tốc và đường thủy và 90 tỷ CNY trong ngành hàng không dân dụng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,3% xuống 639,5 CNY (91,39 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 2% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 9/12/2019. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Singapore giảm 1,5% xuống 88,65 USD/tấn.
Nhu cầu quặng sắt suy yếu cùng với cảnh báo ô nhiễm nặng tại một số trung tâm sản xuất thép Trung Quốc khiến các nhà máy thép hạn chế hoạt động, kéo nhu cầu quặng sắt giảm theo.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 2,1 US cent tương đương 1,6% xuống 1,273 USD/lb. Trong khi đó, giao dịch cà phê ở Châu Á trầm lắng. Cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 70-80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London, tăng so với 50 USD/tấn cách đây 1 tuần. Cà phê nhân xô được chào bán với giá 33.600 đồng (1,45 USD)/kg, giảm so với 33.500 -34.000 đồng/kg hồi tuần trước.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 0,07 US cent (0,5%) lên 13,44 US cent/lb, do giá dầu tăng cao có thể khuyến khích các nhà máy mía đường tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – tăng tỷ lệ mía dùng sản xuất ethanol và giảm tỷ lệ mía dùng sản xuất đường.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 do giới đầu tư lạc quan về thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung. Trên sàn Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1-3/4 USD/bushel lên 9,46-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 9,49 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 13/6/2018; ngô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1 US cent lên 3,88-1/2 USD/bushel; trong khi lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 8 US cent lên 5,49 USD/bushel.
Trong tháng 11/2019, lượng nhập khẩu đậu tương Mỹ của Trung Quốc tăng lên mức cao nhất trong 20 tháng sau khi có nhiều lô đậu tương Mỹ được thông quan trước thềm thỏa thuận thương mại Mỹ được ký kết vào tháng 1/2020. Lượng nhập khẩu đậu tương Mỹ của Trung Quốc tăng lên mức 2,6 triệu tấn, mức cao nhất tính từ tháng 3/2018 và cao hơn so với mức 1,1 triệu tấn trong tháng 10/2019. Cùng kỳ năm 2018, Trung Quốc hoàn toàn không nhập đậu tương Mỹ.
Trung Quốc nhập khẩu từ Argentina 1,4 triệu tấn đậu tương trong tháng 11/2019, cao hơn so với mức 959.936 tấn vào tháng 10/2019, cao hơn rất nhiều so với ngưỡng 36.119 tấn vào tháng 11/2019. Trong tháng 10/2019, Trung Quốc mua 3,9 triệu tấn đậu tương từ Brazil – nhà cung cấp lớn nhất của Trung Quốc, cao hơn từ mức 3,8 triệu tấn trong tháng 10/2019 và 5,1 triệu tấn trong tháng 11/2019.
Các công ty Trung Quốc nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp tục mua đậu tương Mỹ khi mà hai nước gần như chắc chắn sẽ ký kết thỏa thuận thương mại một phần vào đầu tháng 1/2020. Gần đây, Trung Quốc đã không ngừng cấp giấy miễn thuế quan cho một số công ty nội địa mua đậu tương Mỹ. Giấy này cho phép các công ty giảm đươc 30% thuế trả đũa mà Trung Quốc từng áp với đậu tương Mỹ.
Trung Quốc đang xem xét lại chính sách miễn thuế trả đũa với khoảng 60 tỷ USD hàng hóa Mỹ và sẽ công bố danh sách hàng hóa này ở thời điểm thích hợp, theo hải quan Trung Quốc.
Trong tháng này, lượng đậu tương mà Trung Quốc nhập khẩu từ Mỹ sẽ có thể giúp làm giảm tình trạng thiếu hụt nguồn cung, theo nhận định của Trung tâm thông tin ngũ cốc và hạt có dầu Trung Quốc.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải. Cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn TOCOM giảm 2 JPY (0,0183 USD) xuống 198 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 15 CNY (2,14 USD) xuống 12.810 CNY/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 2 liên tiếp lên mức cao nhất gần 3 năm bởi lo ngại nguồn cung thiếu hụt, sau khi cơ quan công nghiệp dự báo sản lượng dầu cọ của nước này trong tháng 12/2029 giảm mạnh hơn so với dự kiến trước đó.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 23 ringgit, tương đương 0,8%, lên 2.946 ringgit (712,63 USD)/tấn; đầu phiên có lúc giá tăng 1,1% lên 2.956 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 16/2/2017. Tính từ đầu năm đến nay, giá dầu cọ tăng 38%, mạnh nhất trong gần 1 thập kỷ.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

61,83

+0,15

+0,24%

Dầu Brent

USD/thùng

68,09

+0,17

+0,25%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.990,00

+320,00

+0,75%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,25

-0,04

-1,79%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

175,11

-0,26

-0,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

205,50

+0,29

+0,14%

Dầu khí

USD/tấn

624,25

+1,25

+0,20%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

60.040,00

+410,00

+0,69%

Vàng New York

USD/ounce

1.514,70

+0,30

+0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.313,00

+21,00

+0,40%

Bạc New York

USD/ounce

17,97

-0,02

-0,11%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,00

-0,30

-0,47%

Bạch kim

USD/ounce

952,10

+6,12

+0,65%

Palađi

USD/ounce

1.899,30

-1,86

-0,10%

Đồng New York

US cent/lb

284,45

-0,45

-0,16%

Đồng LME

USD/tấn

6.215,00

+25,00

+0,40%

Nhôm LME

USD/tấn

1.814,00

+10,00

+0,55%

Kẽm LME

USD/tấn

2.274,00

-17,00

-0,74%

Thiếc LME

USD/tấn

17.125,00

-175,00

-1,01%

Ngô

US cent/bushel

388,25

-0,25

-0,06%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

551,25

+2,25

+0,41%

Lúa mạch

US cent/bushel

283,00

-2,75

-0,96%

Gạo thô

USD/cwt

13,05

-0,04

-0,31%

Đậu tương

US cent/bushel

947,25

+0,75

+0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,20

+0,20

+0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,76

+0,09

+0,26%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

479,70

+1,70

+0,36%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.405,00

-38,00

-1,56%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

127,30

-2,10

-1,62%

Đường thô

US cent/lb

13,44

+0,07

+0,52%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,90

-3,10

-3,01%

Bông

US cent/lb

68,70

0,00

0,00%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

422,30

+1,40

+0,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

198,50

+0,50

+0,25%

Ethanol CME

USD/gallon

1,43

+0,01

+0,56%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg