9 năm sau đó, ngày 14/5/1951, trước yêu cầu của lịch sử, Người đã ký Sắc lệnh 21 đổi tên Bộ Kinh tế thành Bộ Công Thương. Từ đây, ngành Công Thương Việt Nam bắt đầu mở ra trang sử vẻ vang của mình.
71 năm qua, hòa cùng dòng chảy của lịch sử, đáp ứng từng giai đoạn phát triển của đất nước, Bộ Công Thương đã trải qua nhiều lần tách - nhập bộ máy. Nhưng, dù ở bất cứ giai đoạn nào, với tên gọi có thể không giống nhau, Công Thương vẫn là bộ đa ngành, đa lĩnh vực, tiên phong, khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Công tác kế hoạch: Chủ động tạo đà cho những mục tiêu lớn
Trong lịch sử phát triển ngành Công Thương, công tác kế hoạch luôn được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm, chỉ đạo để từ đó làm nền, tạo đà cũng như tính chủ động trong phát triển, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới cũng như 5 năm trở lại đây khi Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng. Trong 71 năm hình thành và phát triển, ngành Công Thương đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, trong đó tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và chuyển dịch cơ cấu hàng hóa, thị trường xuất khẩu là hai dấu ấn được xem là nổi bật trong kế hoạch phát triển ngành Công Thương thời gian qua.
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp ngày càng đi vào thực chất hơn với xu hướng chuyển dịch khá rõ và tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng liên tục, từ 27,1% năm 2016 lên 28,5% năm 2019 và ước tăng 28,2% năm 2020. Đáng chú ý, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã trở thành động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Quy mô của ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP tăng từ 14,27% năm 2016 lên 16,48% vào năm 2019 và 16,9% năm 2020.
Năm 2021, mặc dù liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với thị trường và chuỗi giá trị toàn cầu bị gián đoạn một thời gian do ảnh hưởng bởi đại dịch, nhưng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn tiếp tục giữ vai trò là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37% đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Quý I/2022 vừa qua, giá trị tăng thêm của toàn ngành công nghiệp ước tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,79%, đóng góp 2,05 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Thị trường trong nước - Phát huy vai trò trụ đỡ nền kinh tế
Dọc theo quá trình phát triển của ngành Công Thương, thị trường trong nước đã duy trì tăng trưởng ổn định, đóng góp của thương mại trong nước vào GDP ngày càng tăng, thương mại trong nước trở thành một trong những trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế.
Quá trình phát triển của thị trường trong nước được chia ra nhiều thời kỳ, gắn liền với những giai đoạn phát triển quan trọng của đất nước. Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam và là giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc, vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD. Đây cũng là giai đoạn nghiêm trọng nhất về lạm phát. Chỉ số giá bán lẻ bình quân năm trong giai đoạn 1945-1954 tăng khoảng 66%.
Bước vào thời kỳ 1955-1975, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1955 -1975 mỗi năm tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 66% của thời kỳ 1945-1954.
Chuyển sang thời kỳ 1976-1985, thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Những năm đầu sau giải phóng, công tác phân phối lưu thông gặp rất nhiều khó khăn. Thương nghiệp quốc doanh tuy phát triển nhanh, nhưng còn yếu. Chưa có nhiều hàng hoá, kể cả hàng nông sản - thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm. Kinh tế tăng trưởng chậm, năng lực sản xuất hàng hóa trong nước còn hạn chế làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Thời kỳ 1986-2006, nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua 20 năm đổi mới, có thể đánh giá khái quát những thành tựu của thị trường nội địa như sau: Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ, chuyển sang cơ chế lưu thông mới, khắc phục tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, hình thành thị trường thống nhất khá ổn định và thông suốt trong cả nước; Hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng trưởng với mức cao, trên 10%/năm, phong phú về quy cách chủng loại và chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dư thừa để xuất khẩu, góp phần quan trọng giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân; Kiềm chế được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số mỗi năm trong 3 năm, 1986-1988, hai chữ số mỗi năm trong thời kỳ 1989-1992 đã giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ 1993-2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng 349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%, năm 2006 tăng 6,6%. Đặc biệt, từ 1996 đến nay, không có các “cơn sốt” do quan hệ mất cân đối cung cầu gây ra ngay cả trong dịp lễ, tết hoặc lúc bị thiên tai.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, giai đoạn 2006-2010 cho thấy sự bất ổn của kinh tế thế giới sau thời gian tăng trưởng mạnh nhất kể từ đầu năm 1970. Cuối năm 2009 và năm 2010, suy thoái có dấu hiệu chững lại ở một số nước, nhưng diễn biến vẫn phức tạp, ảnh hưởng xấu đến các nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển, kém phát triển. Trong bối cảnh đó, ngành Công Thương đã vượt qua những thách thức, đạt được những thành tựu nổi bật. Thương mại trong nước đã bảo đảm cân đối cung cầu những mặt hàng trọng yếu cho nền kinh tế, đưa hàng hóa tới vùng sâu, vùng xa.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ xã hội tăng qua các năm, năm 2010 đạt khoảng 1.677,3 nghìn tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần năm 2006 (596 nghìn tỷ đồng). Kết cấu hạ tầng thương mại được củng cố, đặc biệt là sự phát triển khá nhanh của các loại hình phân phối hiện đại, với đa dạng loại hình kinh doanh bán buôn, bán lẻ, đại lý và nhượng quyền thương mại. Hoạt động thương mại nội địa có sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó, có cả thành phần nước ngoài.
Trong giai đoạn này, thị trường hàng hóa có nhiều biến động do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chỉ số giá năm 2008 tăng ở mức cao 19,89% (so với tháng 12/2007) trong đó tập trung vào 6 tháng đầu năm giá cả hàng hoá tăng cao, hoạt động sản xuất và đời sống người dân gặp nhiều khó khăn do giá vật tư, hàng hóa trên thị trường thế giới tăng cao, thời tiết xấu, dịch bệnh ảnh hưởng tưới nguồn cung lương thực, thực phẩm đẩy giá hàng hóa lên cao… Tuy nhiên, nhờ thực hiện nghiêm túc các giải pháp của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, nguồn cung các hàng hóa thiết yếu trong nước đã được duy trì ổn định, giá hàng hóa bắt đầu giảm.
Trong năm 2009 và 2010, thị trường trong nước tiếp tục triển khai các chương trình kích cầu nhằm góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sau giai đoạn bị đình trệ do suy thoái kinh tế toàn cầu. Thị trường hàng hóa mở rộng và phát triển, hàng hóa dồi dào, lạm phát được kiểm soát ở mức hợp lý (CPI năm 2009 tăng 6,25%, năm 2010 tăng 11,75% so với tháng 12 năm trước).
Khẳng định vai trò quan trọng trong kinh tế đất nước, trong những năm qua, thương mại nội địa tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu về hàng hóa cho nhân dân và góp phần quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong cơ cấu GDP cả nước, giá trị tăng thêm của thương mại trong nước (bao gồm bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác) chiếm tỷ trọng ngày càng tăng qua các năm, từ 8% năm 2010 lên 10,1% năm 2015 và 11,2% năm 2019, tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị tăng thêm thương mại trong nước giai đoạn 2011-2019 đạt khoảng 8,8%. Điều này cho thấy thị trường trong nước đã và đang trở thành một động lực góp phần quan trọng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế; giải quyết việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.
Tận dụng các lợi thế về quy mô dân số với thị trường gần 100 triệu dân, thị trường trong nước đã giữ vững được đà tăng trưởng với tốc độ tăng tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ xã hội các năm ở mức hai con số, sức mua và quy mô thị trường ngày càng lớn. Thị trường trong nước giai đoạn 2010-2020 đã duy trì được mức tăng trưởng ổn định, cung cầu hàng hóa được bảo đảm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đa dạng và không ngừng tăng lên của sản xuất và đời sống xã hội.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong gia đoạn này tăng từ 1.677,3 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên 3.223,2 nghìn tỷ đồng năm 2015 và 4.930,8 nghìn tỷ đồng năm 2019, riêng năm 2020 do chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 nên tăng trưởng chỉ ở mức 2,62%. Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn 2011-2015 đạt 14%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt 11,2%/năm, tính chung cả giai đoạn 2011-2019 đạt 12,7%/năm. Nhìn chung giai đoạn 2011-2019, tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng luôn cao gấp 1,5-2 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cả nước trong cùng thời kỳ. Cùng với sự tăng trưởng tốt của quy mô thị trường nội địa, nguồn cung các hàng hóa thiết yếu trong nước luôn được bảo đảm trong mọi thời kỳ, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường hàng hóa thiết yếu bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020 vừa qua.
Trong giai đoạn 2011-2015, Chính phủ đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp nhằm kiểm soát Chỉ số giá tiêu dùng. Năm 2011 là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhất trong 10 năm gần đây (tăng 18,13%) do tác động của các biện pháp nhằm cứu trợ kinh tế trong khủng hoảng tài chính cuối năm 2009 và năm 2010 dẫn tới lạm phát gia tăng tại nhiều nước và Việt Nam. Tuy nhiên từ năm 2012 - 2015, cùng với các giải pháp quyết liệt của Chính phủ, kinh tế trong nước dần phục hồi, lạm phát được kiểm soát tốt, chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm và đạt mức tăng thấp nhất 0,6% trong năm 2015. Giai đoạn này nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi dào, giá hàng hóa thấp.
Trong giai đoạn 2016-2020, Chỉ số giá hàng hóa được kiểm soát nhờ thực hiện tốt, từ 2016 đến 2020 đều đạt được mục tiêu do Quốc hội đề ra. CPI bình quân giảm từ 4,74% năm 2016 xuống 3,54% năm 2018, tiếp tục giảm còn 2,79% trong năm 2019 và ở mức 3,23% trong năm 2020 (cách khá xa mức chỉ tiêu Quốc hội giao dưới 4%).
Công tác điều hành thị trường trong nước trong những năm vừa qua đã được thực hiện theo đúng các tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, theo dõi sát sao, hành động kịp thời để ứng phó với các biến động của thị trường. Nhờ đó, thị trường trong nước tiếp tục phát triển, đóng góp của thương mại trong nước vào GDP ngày càng tăng, thương mại trong nước trở thành một trong những trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế. Cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, giá cả hàng hóa ổn định, góp phần vào thành công trong thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội của Chính phủ.
Từ năm 2020 đến nay, nhất là trong đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, hàng loạt giải pháp của Bộ Công Thương được đánh giá cao trong việc giảm nguy cơ ách tắc các hoạt động cung ứng; đặc biệt, chính sự sáng tạo trong phân phối đã đảm bảo hàng hoá lưu được thông thông suốt ở vùng dịch.
Hội nhập kinh tế quốc tế - hướng đi đúng đắn, sáng suốt
Là cơ quan được giao chức năng quản lý nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã tích cực triển khai thực hiện công tác đàm phán, ký kết các FTA và các nhiệm vụ liên quan đến công tác hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và khu vực (trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực), và đang đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA); và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Ngoài việc tham gia vào các FTA, trong quá trình hội nhập kinh tế ASEAN, Việt Nam cũng đã ghi nhiều dấu ấn quan trọng khi hoàn thành vai trò Chủ tịch ASEAN trong các năm 1998, 2010 và mới đây là năm 2020. Năm 1998, chỉ ba năm sau khi Việt Nam trở thành thành viên của khối, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Kế hoạch hành động Hà Nội được đưa ra tại Hội nghị đã giúp duy trì sự hợp tác và tăng cường vị thế của hiệp hội trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Và trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, đặc biệt trong việc thúc đẩy tiến trình thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Trên cơ sở các chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã chủ động và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN - năm 1995), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu (ASEM - năm 1998), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC - năm 1998) và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO - năm 2007), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam là một trong quốc gia có mức hội nhập kinh tế ở mức rất cao, khi cơ bản định hình mạng lưới gồm 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại với các trung tâm kinh tế hàng đầu. Điều này đã khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như ghi dấu mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt thời gian qua.
Xuất nhập khẩu: Động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế đất nước
Trong 71 năm hình thành và phát triển của ngành Công Thương, cùng các dấu mốc lịch sử của đất nước, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng cũng như sự đổi mới sáng tạo của nền kinh tế.
ở giai đoạn đầu, khi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra trong bối cảnh đất nước chia cắt, vừa sản xuất vừa chiến đấu, các hoạt động xuất khẩu không diễn ra nhiều, các hoạt động ngoại thương chủ yếu là nhập khẩu. Trong các hoạt động nhập khẩu, việc dùng ngoại tệ của Nhà nước để trao đổi, mua bán hàng hóa rất ít. Nhập khẩu thực chất là sự tiếp nhận viện trợ từ các nước bên ngoài, chủ yếu với mục đích tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, duy trì và phát triển sản xuất, phục vụ chiến đấu, chi viện cho miền Nam. Giai đoạn này, hoạt động ngoại thương đã đóng góp được một phần trong việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Năm 1955, hoạt động xuất khẩu chỉ được thực hiện bó hẹp với thị trường 10 nước, đến 1969 đã tăng lên 30 nước.
Sau giải phóng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy quản lý, điều hành. Ngay từ những năm đầu thực hiện “đổi mới” và “mở cửa, nghị quyết của Đại hội Đảng đã thể hiện “xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm này (1986-1990), đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại”. Các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển xuất khẩu được thể hiện và cụ thể hóa tại các Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa qua từng thời kỳ.
Cụ thể, Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, đã xác định: tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu, tăng tốc xuất khẩu trên mọi lĩnh vực; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
Năm 2006, để chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới, nhất là chuẩn bị gia nhập WTO, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006 phê duyệt Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 với mục tiêu tổng quát: phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng xuất khẩu thô. Kiềm chế mức nhập siêu hợp lý, thông qua thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế so sánh để bảo đảm nhu cầu trong nước, tiến tới cân bằng xuất khẩu-nhập khẩu vào những năm đầu sau năm 2010.
Ngoài ra, một định hướng quan trọng của chính sách ngoại thương, đó là xuất khẩu phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng xuất khẩu thô.
Để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới, ngày 28 tháng 12 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2471/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó đã đề ra định hướng chung như sau: Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu; Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với môi trường trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.
Nhìn lại 10 năm thực thi Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2011-2020, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng được mở rộng và tăng cao, đóng góp lớn vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời gia tăng vị thế và nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong thời kỳ 2011-2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng 2,7 lần, từ 203,6 tỷ USD năm 2011 tăng lên 545,3 tỷ USD năm 2020. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đạt 14,6%/năm. Về quy mô xuất khẩu, nếu như năm 2011, Việt Nam ở vị trí thứ 41 thì đến năm 2015 đã vươn lên vị trí thứ 32 và đến năm 2020 ở vị trí thứ 22. Về quy mô nhập khẩu, năm 2020 Việt Nam đã vươn lên vị trí 19 thế giới so với vị trí 33 của năm 2011. Diện mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng và phong phú. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng qua các năm: năm 2011, có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD; năm 2016 tăng lên 25 mặt hàng; đến năm 2020 là 31 mặt hàng. Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn ở vị thế xuất siêu.
Hệ thống pháp luật ngành Công Thương: Tạo lập môi trường kinh doanh tự do, bình đẳng và cạnh tranh
Là Bộ thuộc “khối kinh tế ngành” trong các cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Công Thương đã giúp Chính phủ thực thi Hiến pháp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, góp phần đảm bảo các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kể từ khi thành lập đến nay hệ thống pháp luật về thương mại và công nghiệp đã được Bộ Công Thương và các Bộ tiền nhiệm chú trọng hoàn thiện nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và toàn diện của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh doanh thương mại và công nghiệp. Theo đó, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản luật, pháp lệnh quan trọng như: Luật Thương mại, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Hóa chất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực, Pháp lệnh Quản lý thị trường, Luật Cạnh tranh (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ...
Trong đó, Luật Thương mại đã thể hiện sự thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước trong quản lý hoạt động thương mại, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy thương mại phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế. Đồng thời cụ thể hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Luật Thương mại năm 2005 đã mở rộng khái niệm “hoạt động thương mại”, điều chỉnh đầy đủ cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, cả hoạt động nội thương và ngoại thương; ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận; việc kiểm soát được minh bạch thông qua việc cụ thể hóa các quy định về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Luật Thương mại cũng ghi nhận các hình thức hiện diện thương mại của nhà đầu tư nước ngoài theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam.
Cùng với Luật Thương mại, Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua năm 2016 là đạo luật chủ đạo điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại thương thông qua việc đảm bảo quy định bao quát tất cả công cụ quản lý ngoại thương; quy định cơ chế mở cho việc sử dụng, ban hành các công cụ quản lý ngoại thương mới trong tương lai để đảm bảo tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Đồng thời, cân bằng lợi ích giữa hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động ngoại thương của thương nhân; hoàn thiện, bổ sung các quy định liên quan đến công cụ xúc tiến thương mại mới để nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến ngoại thương, nội luật hóa các điều ước quốc tế có liên quan.
Bên cạnh đó, việc ban hành Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua năm 2004 và hiện là Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của nền kinh tế và những đòi hỏi của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập trong khuôn khổ ASEAN. Luật Cạnh tranh 2018 được ban hành thay thế Luật Cạnh tranh 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/ 2019, tiếp tục hoàn thiện, làm rõ định hướng của Nhà nước đảm bảo quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế. Ngoài ra, sự ra đời của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân kinh doanh; bảo đảm sự cân bằng trong giao dịch dân sự giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh, xã hội hóa công tác bảo vệ người tiêu dùng.
Ngoài ra, Bộ Công Thương còn chủ trì soạn thảo và trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua, ban hành các văn bản pháp luật quan trọng, xác lập quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp vốn thuộc độc quyền nhà nước như Luật Điện lực, Luật Hóa chất, Luật Dầu khí, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả...; thể chế hoá đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển năng lượng quốc gia, đảm bảo an ninh năng lượng, khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ môi trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thúc đẩy những ngành công nghiệp có tầm quan trọng chiến lược như điện, khai khoáng, dầu khí, sản phẩm dầu khí dần dần từng bước chuyển đổi tiến tới cơ chế thị trường, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, đúng với tinh thần Nhà nước chỉ quản lý bằng pháp luật, quản lý qua các tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật của hàng hóa, quy hoạch sản xuất, Bộ Công Thương đã chú trọng công tác xây dựng hệ thống văn bản quản lý ngành theo hướng gỡ bỏ các rào cản hành chính cho đầu tư, sản xuất, lưu thông sản phẩm công nghiệp thông qua việc ban hành các quy chuẩn của sản phẩm, hạn chế các công cụ quản lý hành chính.
Trong suốt tiến trình 71 năm thực hiện nhiệm vụ vừa qua, Bộ Công Thương đã không ngừng nỗ lực, tập trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trên các lĩnh vực được giao phụ trách, các văn bản quy phạm pháp luật được trình/ ban hành đều tập trung vào việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh thương mại, tạo cơ sở đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, chống gian lận thương mại, đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Ngoại thương với các nước châu Á, châu Phi theo chiều dài lịch sử 71 năm phát triển
Theo chiều dài lịch sử 71 năm ngành Công Thương (1951 – 2022), với những nỗ lực không ngừng nghỉ, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu vực châu Á, châu Phi ngày càng tăng trưởng, với đa dạng hóa nhóm mặt hàng xuất khẩu theo từng thị trường cụ thể và đa dạng hóa thị trường cho các nhóm mặt hàng cụ thể.
Hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Từ nhu cầu thực tế phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế để phá thế bị bao vây, cô lập ở những năm đầu thập kỷ 90, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến nay đã mang một sắc thái mới.
Ngược thời gian trở về những năm 1955, các tổ chức kinh tế Việt Nam mới chỉ đặt quan hệ xuất nhập khẩu với các công ty Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Sri Lanka,… và đến năm 1964, miền Bắc đã có quan hệ thương mại với 40 nước so với 10 nước của năm 1955. Tuy nhiên, đặc điểm cơ bản của hoạt động ngoại thương giai đoạn 1955- 1975 là xuất khẩu tăng chậm và xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa, các nước này chiếm từ 85% đến 90% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ta với nước ngoài.
Bắt đầu từ năm 1986, hoạt động ngoại thương của Việt Nam mới thực sự có những bước tiến vượt bậc. Nhờ thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại đến nay, Việt Nam đã có quan hệ xuất nhập khẩu với hơn 100 nước và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam đã ký Hiệp định hợp tác thương mại với EU; bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (12-07-1995); Việt Nam đã ra nhập ASEAN (năm 1995). Ngoài ra, nước ta cũng đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc tế. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mở rộng xuất nhập khẩu và hợp tác kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế khu vực.
Quan hệ thương mại với các nước thuộc khu vực châu Á, châu Mỹ, châu Đại dương tăng dần trong xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam; trong khi đó, quan hệ thương mại với khu vực châu Âu, đặc biệt là Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) giảm mạnh vào những năm 80 và nửa đầu 1990. Đến năm 2001-2010, hoạt động ngoại thương của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Đây trở thành cột mốc quan trọng đối với hoạt động thương mại của Việt Nam. Tiếp đó là đàm phán FTA song phương với EU, Nhật Bản, Chi Lê được khởi động và thu được những kết quả quan trọng. Đến tháng 12/2008, Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản được ký kết. Trong giai đoạn này, các thị trường chủ lực vẫn là Châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và châu Đại Dương. Trong đó, chủ yếu là: ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ.
Còn trong giai đoạn năm 2011 – 2020, về cơ bản, khu vực châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu truyền thống, quan trọng của Việt Nam với tỷ trọng ổn định trên dưới 50% trong tổng giá trị xuất khẩu ra thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã và đang không ngừng đa dạng hóa nhóm mặt hàng xuất khẩu theo từng thị trường cụ thể cũng như đa dạng hóa thị trường cho các nhóm mặt hàng cụ thể để linh hoạt với sự thay đổi của nhu cầu thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho Việt Nam bước sang một trang mới, tầm cao mới, góp phần phát triển thị trường, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu sang khu vực Á - Phi một cách bền vững trong các giai đoạn tiếp theo.
Xúc tiến thương mại- phương thức hỗ trợ xuất khẩu hiệu quả
Xúc tiến thương mại (XTTM) vẫn được đánh giá là hoạt động trọng tâm của ngành Công Thương trong nhiều năm qua. Thông qua Chương trình cấp quốc gia về XTTM, Cục XTTM, Bộ Công Thương đã nỗ lực phối hợp với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp triển khai các hoạt động XTTM, hỗ trợ xuất khẩu. Theo đó, chương trình đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đóng góp chủ đạo trong tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các năm, đặc biệt là việc Việt Nam xuất siêu liên tiếp từ năm 2012 - 2014 và từ năm 2016 - 2019 sau nhiều năm liên tục nhập siêu. Cơ cấu xuất khẩu cũng chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao tỷ trọng chế biến, giá trị gia tăng cho các sản phẩm xuất khẩu và các dịch vụ kèm theo cũng ngày một tăng. Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã gia tăng đáng kể, từ 15 nước, vùng lãnh thổ năm 2000 lên 72 nước, vùng lãnh thổ năm 2009 và lên đến 180 nước, vùng lãnh thổ năm 2019.
Kết quả tích cực trên là “trái ngọt” của nhiều năm nỗ lực khắc phục hạn chế về nguồn kinh phí thực hiện thấp để đa dạng hóa hình thức hỗ trợ và đổi mới hoạt động XTTM. Số liệu từ Bộ Công Thương cũng cho thấy, trong giai đoạn 2003 – 2020 đã có trên 3.500 đề án XTTM quốc gia được phê duyệt với tổng kinh phí hỗ trợ trên 2.240 tỷ đồng. Đây là những đề án có trọng tâm, trọng điểm, bao gồm 3 nội dung: Xúc tiến xuất khẩu, XTTM thị trường trong nước và XTTM khu vực miền núi, biên giới, hải đảo. Các đề án đã hỗ trợ 84.600 lượt doanh nghiệp tham gia; tổng trị giá hợp đồng xuất khẩu hàng hóa được giao dịch và ký kết đạt trên 25,2 tỷ USD và 107 tỷ đồng.
Cùng đó, Chương trình cấp quốc gia về XTTM đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển theo chiều sâu tại các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc; quay trở lại thị trường Nga, Đông Âu; tăng cường hoạt động tại thị trường ASEAN; khai thác thị trường mới tại Trung Đông, Châu Phi và Mỹ La- Tinh. Đồng thời, Chương trình cũng hỗ trợ cho các hiệp hội, ngành hàng tham dự hội chợ, triển lãm chuyên ngành chủ chốt trên thế giới giúp tạo ra hiệu ứng lan tỏa, đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của các ngành trong thời gian qua.
Ngành dầu khí - Kết tinh một tầm nhìn chiến lược - Hiện thực hóa tầm nhìn
Sau 60 năm hình thành và phát triển (1961-2021), Việt Nam đã có một ngành công nghiệp dầu khí hiện đại, đồng bộ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước. Thành tựu ngành dầu khí Việt Nam có được hôm nay, là sự kết tinh của tầm nhìn “xuyên thế kỷ” từ vị Cha già dân tộc (Chủ tịch Hồ Chí Minh), từ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước, là kết quả của sự kiên trì lao động, sáng tạo không ngừng của những thế hệ người làm dầu khí qua các thời kỳ.
Trong thế kỷ 20, khi đất nước vẫn còn đang phải gồng mình kháng chiến chống đế quốc để dành độc lập, tự do cho dân tộc, có lẽ không ai nghĩ, Việt Nam rồi sẽ có và xây dựng được một ngành công nghiệp dầu khí. Thế nhưng, điều này ngay thời điểm khó khăn đó đã hình thành trong tầm nhìn thế kỷ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Lịch sử ngành dầu khí ghi lại, trong chuyến thăm Liên Xô tháng 7 năm 1959, khi đến thăm Khu Công nghiệp dầu lửa Bacu-Adecbaigian, Bác Hồ đã nói: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên Xô nói chung và Adecbaigian nói riêng, phải giúp đỡ Việt Nam khai thác và chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí của Việt Nam mạnh như Bacu”.
Từ tầm nhìn của Bác, Đảng và Chính phủ sau đó đã từng bước hiện thực hóa vào thực tiễn. Với sự hỗ trợ, giúp đỡ ban đầu của Liên Xô, Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu địa chất, thăm dò dầu và khí trong đầu thập niên 1960. Giai đoạn sau đó tiến đến hình thành Liên doanh Dầu khí Việt - Xô hợp tác thăm dò, khai thác đầu khí. Kể từ khi thực hiện đường lối Đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam đã mở rộng hợp tác quốc tế thu hút mạnh đầu tư vào lĩnh vực dầu khí, nâng tầm và mở qui mô, trình độ phát triển; nhiều mỏ dầu, khí đã được phát hiện và đưa vào khai thác thu được những thành tựu rất lớn cả về góc độ khoa học và kinh tế.
Đến năm 2006, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PetroVietNam) được thành lập và triển khai Chiến lược Phát triển ngành dầu khí đến 2015 định hướng 2025. Trong giai đoạn 2006-2010, PetroVietNam hoạt động đạt doanh thu tương đương 18-20% GDP, tăng bình quân 22%/năm; đóng góp 28-30% tổng thu ngân sách nhà nước; xuất khẩu chiếm 15% tổng kim ngạch của cả nước; năng suất lao động tăng 1,6 lần so với giai đoạn 2001-2005; vốn chủ sở hữu tăng 2,4 lần so với đầu kỳ kế hoạch; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu trung bình đạt 20%/năm. Đặc biệt, với việc Nhà máy lọc dầu Dung Quất được đầu tư và vận hành tháng 02/2009, cho ra đời những dòng sản phẩm quan trọng góp phần phục vụ nền kinh tế, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã phát triển cơ bản hoàn chỉnh.
Giai đoạn 2010-2015, PetroVietNam tiếp tục duy trì tăng trưởng bình quân 10%/năm, tổng nộp ngân sách nhà nước đạt 880.000 tỷ đồng (vượt 4,5% kế hoạch), tăng 73% so với thực hiện giai đoạn 2006 - 2010; tổng tài sản đạt 800.000 tỷ đồng, tăng 334.000 tỷ đồng so với 2010; tổng vốn chủ sở hữu đạt 414.000 tỷ đồng, tăng 182.000 tỷ đồng so với 2010; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân đạt 13%/năm.
Ngày 23 tháng 7 năm 2015, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035, đặt trọng tâm vào tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu; trong đó, tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí được coi là lĩnh vực cốt lõi. Nghị quyết 41-NQ/TW đã mở ra một tầm nhìn chiến lược mới cho phát triển ngành dầu khí. Luật Dầu khí sau khi được ban hành cũng đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình mới nhằm tạo khung khổ pháp lý vững chắc cho các hoạt động trong lĩnh vực dầu khí ngày càng bài bản, hiệu quả, hiện đại và hội nhập quốc tế.
Từ 2015 đến nay, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do giá dầu thô giảm sâu, song PetroVietNam vẫn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch Chính phủ giao hàng năm. Các sản phẩm dầu thô, xăng dầu, khí thiên nhiên, khí hóa lỏng, điện, đạm… của ngành dầu khí đã góp phần rất quan trọng vào phát triển đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Trong năm 2020 vừa qua, dù đại dịch Covid-19 đã tác động gây ra khó khăn được cho là chưa từng có trong lịch sử phát triển của ngành dầu khí, giá dầu thô giảm sâu, song PetroVietNam đã vượt qua khủng hoảng, đạt doanh thu 566.000 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 17.500 tỷ đồng; hoàn thành nộp ngân sách nhà nước 82.100 tỷ đồng, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP cả nước.
Theo các tìm kiếm, thăm dò, PetroVietNam đã đánh giá được tiềm năng dầu khí còn lại của Việt Nam ước tính khoảng từ 1,6 đến 2,8 tỉ tấn quy dầu (không kể đã xác định được khoảng 1,4 tỷ tấn), có khả năng cân đối bền vững cho hoạt động khai thác, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong những thập niên tới. Trên cơ sở đó, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ về phát triển dầu khí, PetroVietNam đã xác định, trong giai đoạn 2021-2025 coi quản trị và quản lý doanh nghiệp là giải pháp trung tâm, quản trị nguồn nhân lực là giải pháp đột phá để phát triển hiệu quả hơn. Đồng thời, sẽ kiến nghị Dảng, Chính phủ điều chỉnh Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và các Nghị quyết của Trung ương. Ngay trong năm 2021, với phương châm “quản trị biến động - tối đa giá trị - mở rộng thị trường - tận dụng cơ hội - liên kết đầu tư - phục hồi tăng trưởng”, PetroVietNam đã và đang tiếp tục nỗ lực để thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, vừa phục hồi phát triển, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu, kế hoạch đã đề ra.
Ngành Công Thương Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm cùng đất nước, nhìn lại 71 năm qua, mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của ngành đều vô cùng tự hào về những đóng góp to lớn đối với đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Chính phủ, ngành Công Thương luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, quản lý bao trùm nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước cũng như chăm lo đời sống cho nhân dân. Mỗi thành công của Cách mạng Việt Nam đều mang đậm dấu ấn thành tích của ngành Công Thương Việt Nam qua các thời kỳ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đánh giá rất cao những đóng góp của ngành Công Thương bằng những ghi nhận xứng đáng.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương