Sáng 1/9, Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo khoa học Điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng chủ trì hội thảo. Hội thảo có sự tham gia của Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), Tổng Công ty Đông Bắc, các chuyên gia trong lĩnh vức mỏ, địa chất.

Báo cáo tại hội thảo, ông Lê Văn Duẩn, Phó giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp Vinacomin cho biết tổng trữ lượng than Việt Nam đã được điều tra, thăm dò tính đến hết năm 2014 là 46,96 tỷ tấn. Trong đó, tài nguyên chắc chắn tin cậy là 35,85 tỷ tấn.

So với quy hoạch, trữ lượng tài nguyên than thăm dò theo số liệu gần đây đã giảm 1,77 tỷ tấn. Mức tài nguyên giảm là do cập nhật lại kết quả từ đề án điều tra đánh giá tiềm năng than bể Đông Bắc dưới -300. Còn các khu vực khác không thay đổi

"Theo nội dung quy hoạch điều chỉnh, số đề án thăm dò than sẽ tăng thêm 5 đề án. Tổng mét thăm dò tăng 261.340 mk (mét khoan). Theo đó, đến năm 2020, tổng khối lượng thăm dò tại Bể Đông Bắc, Vùng Nội địa và Bể Sông Hồng đạt 1.846.400 mk", ông Duẩn cho hay.

Cũng theo ông Duẩn, nhu cầu than cả nước trong quy hoạch điều chỉnh sẽ giảm trên 20% so với dự kiến ban đầu. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2017, Việt Nam sẽ thiếu than cho nhu cầu trong nước. Đến năm 2020, nhu cầu than phục vụ cho nhiệt điện sẽ thiếu nghiêm trọng.

 

Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Huyên Thương 

 Ông Ngô Sơn Hải, Phó Tổng Giám đốc EVN cho rằng, quy hoạch than cần phù hợp với quy hoạch phát triển điện. Lý do ông Hải đưa ra là do lượng than cho phát điện chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng than tiêu thụ. 

"Hiện nay, theo tổng sơ đồ 7 điều chỉnh, dự báo nhu cầu than trong nước rất lớn. Đến 2017, lượng than cho phát điện tính cả trong nước và nhập khẩu khoảng 38 triệu tấn than. Đến năm 2020, nhu cầu này sẽ lên đến 70 triệu tấn than cho phát điện.

Riêng đối với than cung cấp cho nhiệt điện miền Nam, dù than trong nước hay than nhập khẩu đểu chuyển qua cảng biển. Do đó, EVN đề nghị quy hoạch chú ý các cảng than trong khu vực than.

Ngoài ra, theo ông Hải, trong quy hoạch than cần chú ý đến việc liên quan đến việc dự phòng những rủi ro. "Như trường hợp như mưa bão ảnh hưởng đến việc cấp than cho miền Nam. Đồng thời, các nhà máy than cần có kho than dự trữ để sử dụng khi có sự cố", ông Hải nói.

Tại hội thảo, Thứ trưởng cho biết, Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 60/2012. Quy hoạch này đã thực hiện có hiệu quả, đảm bảo cung cấp than cho nền kinh tế. Đồng thời, quy hoạch cũng góp phần hiệu quả việc quản lý điều hành, bảo vệ nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước. 

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, do nhu cầu than cho nhiệt điện, phân bón, xi măng, luyện kim.., cũng như điều kiện thăm dò khai thác than có nhiều thay đổi. Do đó, quy hoạch trên sẽ cập nhật đánh giá tình hình thực tế. 

Huyền Thương