Năng lượng: Giá dầu giảm khoảng 20%
Giá dầu thế giới tăng trong phiên cuối cùng của năm 2020, nhưng tính chung cả năm 2020 vẫn mất 1/5 giá trị, do các biện pháp phong tỏa/cách ly chống Covid-19 làm suy giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh tế, khiến thị trường dầu rơi vào khủng hoảng.
Kết thúc phiên 31/12, dầu Brent tăng 17 US cent lên 51,8 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 12 US cent lên 48,52 USD/thùng.
Tuy nhiên, so với thời điểm tháng 4/2020, giá dầu hiện cao gấp đôi. Những thông tin tích cực về vắc xin chống Covid-19 đã giúp giá dầu tăng ngoạn mục trong quý IV, từ đó kéo theo sự hồi phục lên mức cao nhất 10 tháng.
Giá xăng Mỹ giảm 17% trong năm 2020, trong khi dầu sưởi giảm 27%.
Tháng 4/2020, giá dầu đã lao dốc khi dịch Covid-19 bùng phát ở phương Tây đúng vào thời điểm xảy ra cuộc chiến giá cả giữa Saudi Arabia và Nga. Khi đó, dầu WTI giảm xuống mức chưa từng có là - 40,32 USD/thùng, trong khi dầu Brent giảm xuống 15,98 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ năm 1999. Sau đó, giá hồi phục dần.
Mặc dù giá dầu đã hồi phục trong 2 tháng qua, nhưng việc các nước trên thế giới một lần nữa lại phải đóng cửa chống Covid-19 biến thể đã làm gia tăng áp lực lên thị trường này, làm cho triển vọng thị trường trở nên u ám.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) trên thị trường Châu Á tuần cuối năm tăng mạnh, thêm 17% lên mức cao nhất trong vòng 6 năm, do đợt không khí lạnh sâu tại một số quốc gia thúc đẩy lượng nhập khẩu vào khu vực tăng lên mức cao kỷ lục. Cụ thể, giá LNG kỳ hạn tháng 2/2021 giao tới Đông Bắc Á đạt trung bình 14,6 USD/mmBtu (đơn vị nhiệt điện Anh), tăng 2,1 USD so với tuần trước đó. Nhu cầu nhập khẩu mạnh mẽ của khu vực Châu Á là nguyên nhân chính đẩy giá LNG lên mức cao kỷ lục, đồng thời khiến cho tình trạng khan hiếm nguồn cung LNG ở Châu Á càng trở nên trầm trọng. Nhập khẩu LNG vào Châu Á trong tháng 12/2020 ước tính đạt gần 27 triệu tấn, vượt xa mức kỷ lục cũ là 23,6 triệu tấn của tháng 12/2019 và càng cao hơn so với 22,8 triệu tấn của tháng 11/2020.
Kim loại quý: Giá vàng tăng khoảng 25%
Giá vàng tăng trong phiên 31/12 do USD giảm giá, và kết thúc một năm tăng mạnh nhất trong vòng 1 thập kỷ do sự thiếu chắc chắn về triển vọng kinh tế giữa bối cảnh các Chính phủ tăng cường các biện pháp kích thích chống Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của năm 2020, giá vàng giao ngay vững ở mức 1.892,97 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,1% lên 1.895,10 USD/ounce. Tính chung cả năm 2020, giá vàng tăng 25%.
Trên thị trường vàng physical Châu Á, mức trừ lùi giá vàng vật chất ở Ấn Độ nới rộng do khách hàng tạm dừng tham gia vào thị trường, vì người tiêu dùng Ấn Độ tránh việc mua vàng trong dịp lễ thánh Khar Mass – khoảng thời gian được xem là không tốt (kéo dài từ ngày 15/12 đến 14/1). Trong khi đó, nhu cầu ở Singapore và các trung tâm giao dịch vàng khác ở Châu Á tuần qua tăng lên khi khách hàng tăng cường mua vào trước kỳ nghỉ lễ.
Các đại lý tại Ấn Độ tuần qua đã giảm giá 2 USD/ounce so với giá chính thức (bao gồm 12,5% thuế nhập khẩu và 3% thuế bán hàng), gấp đôi mức giảm 1 USD/ounce của tuần trước. Tính chung cả tuần, giá vàng giao ngay ở Ấn Độ giảm tuần đầu tiên trong vòng 4 tuần.
Tại Trung Quốc, mức trừ lùi thu hẹp lại còn 15 – 20 USD/ounce, so với 16 – 20 USD của tuần liền trước, trong khi ở Hongkong, mức cộng trong tuần qua là 0,50- 1,50 USD/ounce, so với + 0,5 USD của tuần liền trước.
Tai Wong, người đứng đầu bộ phận giao dịch phái sinh kim loại quý và kim loại cơ bản của BMO, nhận định Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có nhiều khả năng sẽ tiếp tục kích thích kinh tế hơn nữa cho đến 2022, và đảng Dân chủ sẽ nỗ lực tìm cách để tăng chi tiêu. Theo ông Wong: “Như vậy USD sẽ còn mất giá nữa, và vàng sẽ có cơ hội để tiếp tục tăng” mặc dù hiệu quả của vắc xin sẽ hạn chế đà tăng của giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,3% trong phiên cuối năm, xuống 26,3 USD/ounce, nhưng tính chung cả năm tăng gần 48%. Giá bạch kim giảm 0,2% trong phiên này, xuống 1.063,52 USD/ounce, nhưng tính chung cả năm cũng tăng 10%; trong khi giá palađi tăng 3% trong phiên 31/12, lên 2.433,61 USD/ounce, để tính chung cả năm tăng 25%.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng mạnh
Giá đồng giảm trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2020 do các nhà đầu tư nghi ngờ việc giá có thể tiếp tục tăng hơn nữa trong năm 2021 sau khi đã tăng rất mạnh ở năm 2020.
Kết thúc phiên này, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,1% xuống 7.764 USD/tấn.
Mặc dù vậy, tính chung cả năm 2020, đồng đã tăng giá 26%, mạnh nhất trong số các kim loại cơ bản giao dịch trên sàn LME, do kinh tế Trung Quốc hồi phục mạnh mẽ.
Triển vọng phát triển ngành năng lượng xanh dự báo sẽ tiếp tục hỗ trợ giá đồng đi lên trong những năm tới.
Cũng trong phiên đêm qua, giá các kim loại cơ bản khác đều giảm, đáng chú ý là kẽm giảm 1,5% xuống 2.742 USS/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm 2020, giá kẽm tăng 21%, nickel tăng 19% lên 16.580 USD/tấn, thiếc tăng 18% lên 20.300 USD/tấn, nhôm tăng 9% lên 1.979 USD/tấn và chì tăng 3% lên 1.995 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2020 do nhu cầu mua trước kỳ nghỉ lễ. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Đại Liên – hợp đồng được giao dịch nhiều nhất – giá tăng 2,1% trong phiên 31/12 lên 996 CNY (152,45 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá giảm khoảng 2,5%. Giá thép cây trên sàn Thượng Hải trong cùng phiên tăng 3,3% lên 4.388 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng tương tự lên 4.554 CNY/tấn; thép không gỉ tăng 0,7% lên 13.440 CNY/tấn.
Nông sản: Giá ngũ cốc tăng mạnh
Giá ngô Mỹ kỳ hạn tương lai kết thúc phiên giao dịch 31/12 tăng mạnh nhất trong vòng một thập kỷ sau khi Argentina hạn chế nhập khẩu giữa bối cảnh thời tiết khô hạn tiếp tục đe dọa vụ thu hoạch ở Nam Mỹ, đẩy giá lên mức cao nhất 6,5 năm.
Đậu tương cũng tăng vọt lên mức cao nhất 6 năm rưỡi trong phiên đêm qua vì lý do tương tự gây lo ngại nguồn cung trên toàn cầu sẽ bị thắt chặt, đưa tổng mức tăng giá trong năm 2020 lên nhiều nhất kể từ 2007. Riêng lúa mì giảm trong phiên này sau khi rời khỏi mức cao nhất trong vòng 6 năm.
Cụ thể, sau khi tăng 14 phiên liên tục, giá ngô kỳ hạn tháng 3 tăng 9-1/2 cent lên 4,84 USD/bushel trong phiên cuối năm, mức cao nhất kể từ 16/5/2014; tính chung cả năm 2020 tăng 24,8%. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 10-1/2 cent lên 13,11 USD/bushel, cao nhất kể từ 23/6/2014; tính chung cả năm 2020 tăng 37,2%. Giá khô đậu tương trên thị trường Trung Quốc tuần qua tăng lên mức cao kỷ lục lịch sử do giá đậu tương thế giới tăng mạnh và các nhà đầu tư tin tưởng ngành chăn nuôi của Trung Quốc sẽ tiếp tục hồi phục kéo nhu cầu khô đậu tương tăng theo. Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2020, khô đậu tương kỳ hạn tháng 5 (giao dịch nhiều nhất) trên sàn Đại Liên tăng 4,2% lên 3.423 CNY (523,96 USD)/tấn.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1/4 US cent xuống 6,40-1/2 USD/bushel, sau khi đạt mức cao nhất 6 năm ở phiên liền trước (6,44-1/2 USD/bushel); tính chung cả năm tăng 14,6%.
Việc Bộ Nông nghiệp Argentina thông báo sẽ tạm dừng xuất khẩu ngô đến 28/2 đã thúc đẩy hoạt động mua vào diễn ra mạnh mẽ, giữa bối cảnh nguồn cung ngô và đậu tương đang khan hiếm.
Đường thô cao nhất 5 tuần
Giá đường thô kết thúc năm 2020 ở mức cao nhất trong vòng 5 tuần do USD yếu đi. Đường kỳ hạn tháng 3 tăng 0,21 US cent (1,4%) lên 14,49 US cent/lb, sau khi có thời điểm đạt 15,53 US cent. Đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 2,5 USD (0,6%) lên 420,9 USD/tấn, tính chung cả năm 2020 tăng 17,2%.
Lo ngại sản lượng của Thái Lan – nước xuất khẩu đường lớn – sẽ giảm sút cũng góp phần đẩy giá đường tăng lên. Nước này bắt đầu thu hoạch mía, muộn hơn so với mọi năm, và sản lượng có thể bị ảnh hưởng bởi khô hạn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 trong phiên 31/12 tăng 2,85 cent, tương đương 2,3%, lên 1,2825 USD/lb; tính chung cả năm giảm nhẹ 1,1% do sản lượng của Brazil bội thu, mặc dù sản lượng của nước này năm 2021 dự báo giảm nhẹ. Cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 10 USD (0,7%) lên 1.386 USD/tấn, tính chung cả năm hầu như không thay đổi.
Giao dịch cà phê tại Châu Á tuần cuối năm không sôi động do thiếu container khiến cước phí vận chuyển tăng vọt trong khi nhu cầu giảm sút. Thị trường Indonesia dừng hoạt động vì nghỉ lễ.
Tại Tây Nguyên, cà phê nhân xô được chào bán với giá 33.200 đồng (1,44 USD)/kg, giảm nhẹ so với 34.000 đồng của tuần trước. Cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) chào giá cộng 135 – 145 USD/tấn so với hợp đồng tham chiếu ở sàn London, tăng so với mức cộng 100 USD/tấn của tuần trước.
Giá dầu cọ Malaysia phiên cuối cùng của năm 2020 tăng 14 ringgit (0,4%) lên 3.602 ringgit (896,02 USD)/tấn (kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn Bursa) do xuất khẩu dầu cọ nước này tăng.
Trong giai đoạn 1-25/12, Malaysia đã xuất khẩu 1.290.257 tấn dầu cọ, tăng 14,4% so với cùng kỳ tháng trước.
Giá cao su trên sàn Thượng Hải tăng trong phiên cuối cùng của năm 2020, theo đó hợp đồng kỳ hạn tháng 5 tăng 165 CNY ((khoảng 25,29 USD) lên 13.900 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 30/11

Giá 31/12

31/12 so với 30/12

31/12 so với 30/12 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,16

48,52

+0,12

+0,25%

Dầu Brent

USD/thùng

47,59

51,80

+0,17

+0,33%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.820,00

32.710,00

+90,00

+0,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,96

2,54

+0,12

+4,83%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

124,89

141,01

+0,88

+0,63%

Dầu đốt

US cent/gallon

135,59

148,40

-0,78

-0,52%

Dầu khí

USD/tấn

389,50

420,75

-4,50

-1,06%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

46.100,00

47.620,00

-160,00

-0,33%

Vàng New York

USD/ounce

1.783,10

1.895,10

+1,70

+0,09%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.978,00

6.294,00

+15,00

+0,24%

Bạc New York

USD/ounce

22,73

26,41

-0,16

-0,61%

Bạc TOCOM

JPY/g

75,50

90,70

-0,70

-0,77%

Bạch kim

USD/ounce

974,15

1.072,02

-0,10

-0,01%

Palađi

USD/ounce

2.380,98

2.448,81

0,00

0,00%

Đồng New York

US cent/lb

346,05

357,25

+5,35

+1,52%

Đồng LME

USD/tấn

7.580,00

7.766,00

-81,50

-1,04%

Nhôm LME

USD/tấn

2.045,00

1.979,50

-20,00

-1,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.790,50

2.751,00

-33,50

-1,20%

Thiếc LME

USD/tấn

18.621,00

20.325,00

-10,00

-0,05%

Ngô

US cent/bushel

426,50

484,00

+9,50

+2,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

586,75

640,50

-0,25

-0,04%

Lúa mạch

US cent/bushel

293,00

360,75

+11,75

+3,37%

Gạo thô

USD/cwt

12,56

12,69

+0,20

+1,60%

Đậu tương

US cent/bushel

1.168,00

1.311,00

+10,50

+0,81%

Khô đậu tương

USD/tấn

390,50

429,40

+1,60

+0,37%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,59

42,40

+0,54

+1,29%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

578,80

637,00

+4,10

+0,65%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.739,00

2.603,00

+6,00

+0,23%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

123,30

128,25

+2,85

+2,27%

Đường thô

US cent/lb

14,51

15,49

+0,21

+1,37%

Nước cam

US cent/lb

128,75

125,50

-0,45

-0,36%

Bông

US cent/lb

72,15

78,12

+0,15

+0,19%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

636,80

716,90

-28,10

-3,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,20

151,30

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

1,52

0,00

0,00%

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg