Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm phiên thứ 4 liên tiếp do lo ngại nhu cầu tại châu Âu yếu đi giữa bối cảnh lượng dầu tồn kho tại Mỹ gia tăng.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 39 US cent (0,6%) xuống 68 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 20 US cent (0,3%) xuống 63,68 USD/thùng.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ngày 17/3 tiếp tục giữ mức lãi suất chủ chốt gần bằng 0%, và dự báo sẽ không tăng lãi suất cho đến năm 2023 cũng như cam kết duy trì biện pháp mua trái phiếu. Trong cuộc họp kéo dài hai ngày của Fed, hầu hết các quan chức của cơ quan này cho biết họ không muốn tăng lãi suất cho đến năm 2023. Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC), cơ quan hoạch định chính sách của Fed đã bỏ phiếu để duy trì ổn định lãi suất cho vay ngắn hạn ở mức gần 0%, đồng thời tiếp tục chương trình mua tài sản, trong đó Fed sẽ mua ít nhất 120 tỷ USD trái phiếu mỗi tháng.
Trong khi đó, một số quốc gia châu Âu đã tạm dừng sử dụng vaccine ngừa COVID-19 của AstraZeneca do lo lắng về các tác dụng phụ. Trong khi đó, Đức chứng kiến các ca mắc mới gia tăng; Chính phủ Italy đang áp đặt chính sách đóng cửa trên toàn quốc; còn Pháp lên kế hoạch thực thi các biện pháp hạn chế cứng rắn hơn.
Stephen Brennock, nhà môi giới tại PVM nhận định chính sách đóng cửa sẽ không mang lại đà phục hồi kinh tế cũng như thúc đẩy nhu cầu nhiên liệu tại châu Âu. Theo chuyên gia này, hy vọng hiện nay là châu Âu có thể đưa việc triển khai vaccine trở lại đúng hướng.
Dữ liệu của chính phủ cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 2,4 triệu thùng trong tuần trước. Dữ trữ dầu thô của Mỹ đã tăng bốn tuần liên tiếp sau khi hoạt động của nhà máy lọc dầu ở miền Nam bị ảnh hưởng bởi thời tiết khắc nghiệt vào tháng trước. Các nhà phân tích cho biết các công ty đang dần khởi động lại các cơ sở và hoạt động sản xuất dự kiến sẽ được khôi phục trong vài tuần tới.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ngày 17/3 dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sẽ trở lại mức trước đại dịch trong hai năm và đạt mức cao kỷ lục vào năm 2026 trừ trường hợp các chính phủ có hành động nhanh chóng để đáp ứng các mục tiêu chống biến đổi khí hậu.
Theo báo cáo thường niên của IEA, khi chương trình tiêm chủng tiến hành trên diện rộng và chính sách hạn chế được dỡ bỏ, nhu cầu dầu sẽ trở lại mức của năm 2019 vào năm 2023. IEA ước tính nhu cầu dầu toàn cầu mỗi năm sẽ tăng 104 triệu thùng/ngày vào năm 2026, tăng 4% so với năm 2019.
Giá than luyện cốc tại Trung Quốc tăng hơn 5% lên mức cao nhất trong gần một tháng bởi lo ngại nguồn cung và nhu cầu mạnh khi các nhà máy luyện cốc đang tích cực sản xuất để thu lợi nhuận mặc dù giá giao ngay giảm gần đây.
Giá than luyện cốc giao tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại liên tăng khoảng 5,3% lên 1.605 CNY (246,85 USD)/tấn. Hợp đồng này đóng cửa tăng 5,2% lên 1.603 CNY/tấn. Than cốc tăng 3,1% lên 2.321 CNY/tấn.
Một số nhà máy luyện thép bắt đầu giảm giá mua than cốc 100 CNY/tấn, lần thứ 5 trong năm nay để cân bằng việc phân chia lợi nhuận không đồng đều tại các nhà máy luyện cốc và nhà máy sản xuất thép. Tuy nhiên, lợi nhuận các nhà máy luyện cốc vẫn khá tốt.
Trong khi đó, đại dịch Covid-19 bùng phát gần đây ở Mông Cổ, nguồn cung cấp than luyện cốc quan trọng cho Trung Quốc đã hỗ trợ giá.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tái khẳng định quan điểm về chính sách tiền tệ nới lỏng và đồng USD yếu đi.
Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.743,93 USD/ounce sau khi có lúc tăng 1,2%. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn đóng phiên ở mức 1.727,10 USD/ounce.
Phiên này, đồng USD giảm 0,5%, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn với những người nắm giữ đồng tiền khác. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ vẫn ở mức cao sau khi Fed dự kiến về mức tăng trưởng kinh tế cao và không tăng lãi suất cho đến năm 2023. Tình trạng này đang đặt ra thách thức đối với vị thế của vàng, vốn được coi là công cụ hữu hiệu để chống lạm phát.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do dấu hiệu nhu cầu cao với kim loại này, mặc dù đà tăng bị hạn chế bởi tồn kho đang tăng và USD mạnh lên trước tuyên bố của Fed.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,4% lên 9.090 USD/tấn, giá đã chạm đỉnh 9,5 năm tại 9.617 USD trong tháng trước.
Số liệu từ Trung Quốc cho thấy tăng trưởng công nghiệp mạnh hơn dự kiến trong 2 tháng đầu năm 2021, trong khi các khoản vay mới tại nước này giảm ít hơn dự kiến trong tháng 2.
Đà tăng giá bị hạn chế do tồn kho LME tăng lên. Tổng dự trữ tăng 44% trong 2 tuần qua lên 107.275 tấn.
Chênh lệch giữa đồng giao ngay và hợp đồng giao sau 3 tháng đã giảm uống 5 USD/tấn so với 62,3 USD/tấn vào ngày 26/2, cao nhất trong hai năm.
Sản lượng đồng đã tinh luyện của Trung Quốc trong hai tháng đầu năm 2021 tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 1,63 triệu tấn, theo số liệu của Tổng cục thống kê quốc gia Trung Quốc.
Tổ chức nghiên cứu đồng cho biết trong 11 tháng đầu năm 2020, thị trường đồng đã tinh luyện thiếu hụt 589.000 tấn so với thiếu hụt 427.000 tấn trong cùng kỳ năm trước đó.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt Đại Liên tăng 0,6% lên 1.068 CNY/tấn; quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe ở Trung Quốc tăng 2 USD lên 166 USD/tấn trong ngày 16/3; giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 1,1% lên 4,785 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 0,2% lên 4.984 CNY. Thép không gỉ giảm 0,5% xuống 13.955 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương của Mỹ giảm do xuất khẩu chậm lại khi nhu cầu toàn cầu chuyển sang nguồn cung từ Nam Mỹ và do nông dân Mỹ chuẩn bị tăng đáng kể diện tích trồng trong mùa xuân này. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 5-1/2 US cent xuống 14,17-3/4 USD/bushel, mặc dù giá vẫn gần mức đỉnh nhiều năm đã đạt được hồi đầu tháng.
Giá ngô diễn biến trái chiều, với hợp đồng kỳ hạn gần mạnh. Theo đó, giá ngô kỳ hạn tháng 5 tăng 3-3/4 US cent lên 5,58 USD/bushel sau khi chạm mức cao nhất trong gần 3 tuần sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ khẳng định xuất khẩu mạnh sang Trung Quốc trong 2 ngày liên tiếp. Các hợp đồng kỳ hạn sau đều giảm.
Giá lúa mì giảm bởi các hợp đồng lúa mì đỏ cứng vụ đông khi tình trạng mùa vụ đang cải thiện và dấu hiệu sản lượng của Nga tốt hơn dự kiến. Lúa mì kỳ hạn tháng 5 giảm 7 US cent xuống 6,4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 0,31 US cent hay 1,9% xuống 15,99 US cent/lb; đường trắng cùng kỳ hạn giảm 4,9 USD hay 1,1% xuống 458,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường vẫn chưa rõ chiều hướng, hỗ trợ mạnh quanh mức 15,85/15,90 US cent và mức kháng cự khoảng 16,5/16,55 US cent. Có một số giao dịch chốt lời trong thị trường do các nhà đầu tư đánh giá thay đổi trong triển vọng kinh tế vĩ mô. Các nhà máy đường Ấn Độ đã ký hợp đồng xuất khẩu 4,3 triệu tấn đường từ đầu niên vụ 2020/21.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 0,95 US cent hay 0,7% xuống 1,3355 USD/lb sau khi tăng lên mức 1,3565 USD, cao nhất kể từ ngày 1/3; robusta giao tháng 5 thay đổi ít tại 1.406 USD/tấn.
Các đại lý cho biết đồng nội tệ của Brazil suy yếu gây ra đợt chốt lời sau đợt tăng giá gần đây của thị trường. Chính phủ nước ngày trong ngày 17/3 đã nâng mạnh triển vọng lạm phát.
Các đại lý cũng tiếp tục theo dõi tình trạng Covid-19 ngày càng tồi tệ ở Brazil, với tốc độ tử vong kỷ lục có thể dẫn tới các hạn chế nghiêm khắc hơn.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm do xuất khẩu ô tô ít hơn ảnh hưởng tới xuất khẩu trong tháng trước của Nhật Bản, làm dấy lên lo ngại về sự phục hồi kinh tế nhanh chóng của nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này. Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 1 JPY hay 0,4% xuống 272,8 JPY/kg.
Theo số liệu chính thức xuất khẩu của Nhật Bản giảm nhanh hơn dự kiến trong tháng 2.
Giá cao su tại Thượng Hải giao tháng 5 tăng 0,7% lên 15.300 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 18/3/2021

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

64,29

-0,31

-0,48%

Dầu Brent

USD/thùng

67,63

-0,37

-0,54%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

43.290,00

-670,00

-1,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,51

-0,02

-0,71%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

204,99

+0,28

+0,14%

Dầu đốt

US cent/gallon

189,60

-1,01

-0,53%

Dầu khí

USD/tấn

531,00

-1,25

-0,23%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.170,00

-70,00

-0,12%

Vàng New York

USD/ounce

1.749,40

+22,30

+1,29%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.151,00

+62,00

+1,02%

Bạc New York

USD/ounce

26,61

+0,55

+2,12%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,10

+2,10

+2,28%

Bạch kim

USD/ounce

1.226,13

+10,49

+0,86%

Palađi

USD/ounce

2.628,60

+54,61

+2,12%

Đồng New York

US cent/lb

413,50

+1,60

+0,39%

Đồng LME

USD/tấn

9.065,50

+105,00

+1,17%

Nhôm LME

USD/tấn

2.227,50

+25,00

+1,14%

Kẽm LME

USD/tấn

2.827,00

+17,00

+0,60%

Thiếc LME

USD/tấn

25.740,00

+740,00

+2,96%

Ngô

US cent/bushel

555,00

-3,00

-0,54%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

637,75

-2,25

-0,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

373,00

+1,50

+0,40%

Gạo thô

USD/cwt

13,18

-0,04

-0,26%

Đậu tương

US cent/bushel

1.414,00

-3,75

-0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

402,60

-2,30

-0,57%

Dầu đậu tương

US cent/lb

54,61

+0,01

+0,02%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

622,20

-2,30

-0,37%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.521,00

-5,00

-0,20%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

133,55

-0,95

-0,71%

Đường thô

US cent/lb

15,99

-0,31

-1,90%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

114,80

-4,60

-3,85%

Bông

US cent/lb

87,36

+0,85

+0,98%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

854,20

+14,20

+1,69%

Cao su TOCOM

JPY/kg

183,80

+4,00

+2,22%

Ethanol CME

USD/gallon

1,80

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg