Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do triển vọng Mỹ sắp đạt được thỏa thuận về gói kích thích kinh tế mới.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 11/2020 tăng 63 US cent (1,54%) lên 41,46 USD/thùng; dầu WTI giao tháng 12/2020 tăng 64 US cent lên 41,70 USD/thùng; trong khi dầu Brent giao tháng 12/2020 tăng 54 US cent (1,27%) lên 43,16 USD/thùng.
Chủ tịch Hạ viện Mỹ cho biết bà lạc quan Đảng Dân chủ có thể đạt được một thỏa thuận với Nhà Trắng để có thể đưa ra gói kích thích mới vào đầu tháng tới.
Tuy nhiên, sự hoài nghi về tác động của thỏa thuận này đối với thị trường dầu thế giới vẫn còn hiện hữu. Chuyên gia Jim Ritterbusch của Ritterbusch and Associates nhận định, ngay cả khi Mỹ thông qua một gói kích thích mới, giá dầu vẫn có khả năng giảm.
Sự gia tăng số ca lây nhiễm dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 tại châu Âu và Bắc Mỹ gây lo ngại Chính phủ các nước sẽ tái áp đặt các lệnh giãn cách xã hội mới.
Ngoài ra, có một nhân tố khác gây áp lực lên nguồn cung là thông tin sản lượng tăng từ Libya. Quốc gia này đang nhanh chóng thúc đẩy sản xuất dầu mỏ sau khi tình trạng xung đột làm gián đoạn gần như toàn bộ hoạt động sản xuất của nước này hồi tháng 1/2020. Nguồn tin trong ngành cho biết hoạt động sản xuất dầu tại Sharara, mỏ dầu lớn nhất Libya, đã được nối lại từ ngày 11/10 và hiện đạt khoảng 150.000 thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ do USD yếu đi và giới đầu tư kỳ vọng về gói viện trợ mới cho kinh tế Mỹ trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.912,71 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 0,2% lên 1.915,40 USD/ounce.
Nhà phân tích trưởng của ActivTrades, ông Carlo Alberto De Casa cho biết trong vài ngày qua, giá vàng không có nhiều biến động vì các nhà đầu tư đang chờ đợi những động lực thị trường mới. Ông nhận định chỉ có một đợt tăng giá vững chắc trên ngưỡng 1.930 USD/ounce mới tạo ra động lực mới cho giá vàng.
Ông David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại của công ty tư vấn High Ridge Futures, cho biết nhà đầu tư vẫn đang theo dõi và quan sát diễn biến tiếp theo của cuộc đàm phán về gói kích thích kinh tế mới của Mỹ, với hy vọng rằng cuối cùng vẫn có một gói kích kích thích nào đó được thực hiện. Rõ ràng, triển vọng về một gói cứu trợ cho kinh tế Mỹ là yếu tố quan trọng nhất đối với thị trường trong ngắn hạn. Vàng - được coi là “nơi trú ẩn an toàn” chống lại lạm phát và giảm giá tiền tệ - đã tăng 26% kể từ đầu năm 2020 đến nay.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,4% so với các đối thủ xuống mức thấp nhất kể từ ngày 21/9, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,6% lên 24,90 USD/ounce, trong khi bạch kim tăng 2,6% lên 878,95 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng lập kỷ lục cao nhất 28 tháng do dự đoán nhu cầu mạnh từ Trung Quốc đồng thời USD suy yếu, khi các thị trường đợi kết quả của các cuộc đàm phán kích thích kinh tế tại Mỹ.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 1,7% lên 6.898 USD/tấn. Đầu phiên, có lúc giá chạm mức cao nhất 28 tháng, là 6.937,5 USD/tấn, tăng gần 60% kể từ tháng 3.
USD giảm giá khiến các kim loại định giá bằng USD rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác, điều đó có thể thúc đẩy nhu cầu và giá.
Giá đồng tăng cũng bởi đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng so với USD lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2018 và lo lắng về gián đoạn nguồn cung tại Chile - nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới.
Về nhóm sắt thép, giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc ở mức 119,5 USD/tấn trong ngày 19/10. Công ty khai thác mỏ Vale SA của Brazil báo cáo sản lượng quặng sắt tăng trong quý 3 và dự đoán tiếp tục tăng sản lượng trong quý 4 tại một số đơn vị.
Giá thép thanh tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm trong phiên giao dịch, khi số liệu cho thấy thị trường nhà chậm lại làm tăng lo lắng về lĩnh vực đã hỗ trợ nhu cầu nguyên liệu xây dựng trong năm nay. Cụ thể, thép thanh giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa giảm 0,3% xuống 3.616 CNY (540,67 USD)/tấn; thép không gỉ giao tháng 12/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 0,6% xuống 14.505 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 0,2% lên 3.745 CNY/tấn.
Giá nhà mới của Trung Quốc trong tháng 9 tăng với tốc độ chậm hơn so với tháng trước trong bối cảnh hạn chế bong bóng thị trường. Trong khi đó, tăng trưởng của các công trình xây dựng mới được đo bằng diện tích sàn giảm 1,9% so với tháng trước, giảm so với mức tăng 2,4% trong tháng 8.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1,15 US cent hay 1,1% xuống 1,049 USD/lb, trong phiên giá đã xuống mức thấp nhất trong gần 3 tháng là 1,04 USD; rubusta kỳ hạn tháng 1/2021 đóng cửa giảm 16 USD hay 1,2% xuống 1.289 USD/tấn.
Nỗi lo ngại thời tiết khô hạn tại Brazil đã giảm bớt khi mưa trở lại, trong khi nhu cầu cà phê arabica vẫn yếu do một làn sóng lây nhiễm virus corona mới buộc một số quốc gia Châu Âu hạn chế hoạt động các quán cà phê và nhà hàng.
Giá đường cũng giảm trong phiên vừa qua. Cụ thể, đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa giảm 0,18 US cent hay 1,2% xuống 14,54 US cent/lb, giá đã chạm mức đỉnh 7,5 tháng là 14,72 US cent trong ngày 19/10; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 6,4 USD hay 1,6% xuống 396,8 USD/tấn.
Xu hướng giá giảm được hạn chế bởi lo ngại rằng nguồn cung có thể thắt chặt trong đầu năm tới, khi nhà sản xuất hàng đầu Brazil chưa tới vụ thu hoạch và khả năng hạn chế xuất khẩu từ các nhà cung cấp quan trọng của Ấn Độ nếu chính sách trợ cấp bị trì hoãn hay cắt giảm.
Giá cao su Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp, do lo ngại về nguồn cung thắt chặt bởi bất ổn đinh trị tại Thái Lan, nhà sản xuất cao su hàng đầu thế giới và sự phục hồi kinh tế mạnh tại Trung Quốc.
Hợp đồng cao su giao tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 3,4 JPY hay 1,7% lên 207,5 JPY (1,97 USD)/kg, gần mức cao nhất kể từ ngày 17/1 tại 208 JPY đã đạt được trong phiên trước. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 580 CNY lên 14.690 CNY (2.196 USD)/tấn, tiếp tục tăng trong phiên thứ 8 liên tiếp. Trong phiên này giá đã đạt 14.705 CNY/tấn, cao nhất kể từ tháng 12/2017.
Các nhà đầu tư đã bán phá giá chứng khoán Thái Lan trong ngày 19/10 và các nhà phân tích cảnh báo về khả năng bán tháo tiền tệ do lo ngại cuộc đối đầu leo thang giữa chính quyền và những người biểu tình chống chính phủ.
Giá hàng hóa sáng 21/10

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,45

-0,25

-0,60%

Dầu Brent

USD/thùng

42,93

-0,23

-0,53%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.670,00

+240,00

+0,84%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

+0,02

+0,62%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

118,09

-0,70

-0,59%

Dầu đốt

US cent/gallon

116,94

-0,41

-0,35%

Dầu khí

USD/tấn

338,75

+1,50

+0,44%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.600,00

+320,00

+0,74%

Vàng New York

USD/ounce

1.922,20

+6,80

+0,35%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.496,00

+40,00

+0,62%

Bạc New York

USD/ounce

25,20

+0,22

+0,86%

Bạc TOCOM

JPY/g

84,50

+1,50

+1,81%

Bạch kim

USD/ounce

882,80

+7,00

+0,80%

Palađi

USD/ounce

2.408,25

+3,35

+0,14%

Đồng New York

US cent/lb

315,85

+1,05

+0,33%

Đồng LME

USD/tấn

6.899,00

+119,50

+1,76%

Nhôm LME

USD/tấn

1.834,50

-19,00

-1,03%

Kẽm LME

USD/tấn

2.529,50

+38,50

+1,55%

Thiếc LME

USD/tấn

18.670,00

+30,00

+0,16%

Ngô

US cent/bushel

410,75

+2,00

+0,49%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

635,50

+3,50

+0,55%

Lúa mạch

US cent/bushel

300,75

+0,75

+0,25%

Gạo thô

USD/cwt

12,24

-0,21

-1,69%

Đậu tương

US cent/bushel

1.070,00

+6,25

+0,59%

Khô đậu tương

USD/tấn

375,40

+3,50

+0,94%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,63

+0,32

+0,96%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

542,90

+1,20

+0,22%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.382,00

-43,00

-1,77%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

104,90

-1,15

-1,08%

Đường thô

US cent/lb

14,54

-0,18

-1,22%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,35

+0,35

+0,30%

Bông

US cent/lb

70,98

-0,04

-0,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

531,70

-19,00

-3,45%

Cao su TOCOM

JPY/kg

160,90

+2,80

+1,77%

Ethanol CME

USD/gallon

1,47

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg