Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do số liệu tồn kho của Mỹ cho thấy nhu cầu các sản phẩm dầu mỏ đã lọc yếu bởi số ca nhiễm Covid-19 trên toàn cầu tăng vọt.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô Brent giảm 1,43 USD hay 3,3% xuống 41,73 USD/thùng; dầu WTI giảm 1,67 USD hay 4% xuống 40,03 USD/thùng.
Tồn kho dầu thô của Mỹ giảm 1 triệu thùng trong tuần tính tới ngày 16/10 xuống 488,1 triệu thùng, trong khi tồn kho xăng tăng một dấu ghiệu cho thấy nhu cầu nhiên liệu yếu.
Số ca nhiễm Covid-19 trên toàn cầu tiếp tục tăng, một số nơi của Châu Âu đang áp đặt các biện pháp phong tỏa mới. Bộ trưởng Năng lượng Nga cho rằng hiện vẫn còn quá sớm để bàn luận việc hạn chế sản lượng dầu toàn cầu sau tháng 12, chưa đến một tuần sau khi cho biết các kế hoạch giảm việc hạn chế sản lượng sẽ được tiến hành.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng 1% lên mức cao nhất trong một tuần do nhà đầu tư lạc quan tin tưởng rằng gói cứu trợ đại dịch COVID-19 của Mỹ sẽ được công bố trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày 3/11. Thông tin này đã làm đồng USD yếu đi và làm tăng sức hấp dẫn của vàng như một công cụ chống lạm phát.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1% lên 1.924,73 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,7% lên 1.929,5 USD/ounce.
Trưởng bộ phận giao dịch của tổ chức Các nhà đầu tư toàn cầu của Mỹ (U.S. Global Investors) cho rằng Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi đặt thời hạn chót cho một thỏa thuận về gói cứu trợ mới giữa Nhà Trắng với Hạ viện là 22/10. Điều này làm nhiều người nghĩ rằng một thỏa thuận có thể được thực hiện trong tương lai gần vì vậy các nhà đầu tư bắt đầu tích lũy vàng.
Chánh văn phòng Nhà Trắng Mark Meadows nói rằng điểm mấu chốt lớn nhất của thỏa thuận cứu trợ vẫn là việc hỗ trợ cho chính quyền tiểu bang và địa phương, và đang có tiến triển để đạt được thỏa thuận về gói kích thích kinh tế mới.
Việc gia tăng “đặt cược” vào một bước đột phá cuối cùng đã đẩy đồng “bạc xanh” xuống mức thấp nhất trong hai tháng qua, khiến vàng trở nên rẻ hơn cho các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền khác.
Vàng - được coi là “nơi trú ẩn” chống lại lạm phát và giảm giá tiền tệ và bất ổn - đã tăng 26% kể từ đầu năm đến nay nhờ các gói kích thích kinh tế lớn chưa từng có trên toàn cầu nhằm đưa các nền kinh tế thoát khỏi cuộc suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra.
Theo cuộc khảo sát của hãng tin Reuters, mặc dù giá vàng trung bình có thể thấp hơn ngưỡng 2.000 USD/ounce trong năm sau khi đà tăng kỷ lục chậm lại, song giá kim loại quý này vẫn có thể đạt tới mức cao kỷ lục mới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,9% lên 25,10 USD/ounce, trong khi bạch kim tăng 2% lên 888,12 USD/ounce, và giá palađi tăng 0,1% lên 2.400,22 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng mạnh lên trên 7.000 USD/tấn lần đầu tiên kể từ tháng 6/2018, do hy vọng về gói kích thích của Mỹ, đình công tại các mỏ ở Chile, dự đoán nhu cầu mạnh tại Trung Quốc và đồng CNY mạnh lên.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa tăng 1,4% lên 6.998,5 USD/tấn sau khi trước đó đạt 7.034 USD/tấn.
Giá kim loại này đã tăng 60% từ mức thấp hồi tháng 3 khi Trung Quốc nước tiêu thụ một nửa lượng đồng trên thế giới, đã phục hồi từ cú sốc virus corona.
USD giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tuần trong khi CNY tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2018, và khiến các kim loại rẻ hơn đối với các khách hàng Trung Quốc. Nhập khẩu của Trung Quốc đang hút hết lượng đồng dư thừa của thế giới.
Mỏ đồng Candelaria của Chile đã dừng hoạt động từ ngày 20/10 sau khi công đoàn kêu gọi đình công. Các công nhân tại Codelco đã xuống đường để từ chối việc sa thải trong ngày 19/10.
Kết quả thăm dò của Reuters cho biết giá đồng giao ngay trên sàn LME dự kiến đạt trung bình 6.800 USD/tấn trong năm 2021, nhôm 1.775 USD/tấn, nickel 15.157 USD/tấn và kẽm 2.350 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng theo xu hướng giá giao ngay, bất chấp dự đoán nguồn cung tăng từ các công ty khai mỏ trong những tháng tới.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên biến động nhẹ trong đầu phiên giao dịch và kết thúc phiên tăng 1,4% lên 797 CNY (119,99 USD)/tấn. Các thành phần sản xuất thép khác cũng tăng. Giá quặng sắt Australia giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc tăng 0,5 USD lên 120 USD/tấn trong ngày 20/10, theo số liệu của công ty SteelHome.
Giá thép thanh trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,9% lên 3.650 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 1,2% lên 3.788 CNY/tấn. Thép không gỉ tại Thượng Hải giao tháng 12 tăng 1,6% lên 14.695 CNY/tấn.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 giảm 3,8% so với tháng 9/2019 xuống 73,48 triệu tấn, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Quốc gia.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) tăng do lo ngại về tình trạng hạn hán tại một số khu vực sản xuất chính trên toàn cầu đã thúc đẩy triển vọng xuất khẩu cả hai mặt hàng này của Mỹ.
Lúa mì đỏ, mềm, mùa đông giảm, do áp lực chốt lời sau 5 ngày tăng liên tiếp. Nhưng lo ngại về đất khô cằn ở khu vực Biển đen đã củng cố thị trường và hạn chế đà giảm.
Giá lúa mì CBOT giảm 3/4 US cent xuống 6,31-1/4 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 5 US cent lê 4,13-3/4 USD/bushel. Giá đã đạt 4,14-1/4 USD, cao nhất đối với hợp đồng được giao dịch nhiều nhất kể từ ngày 12/8/2019. Ngô đã tăng 6 trong 7 phiên qua; đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 8 US cent lên 10,72 USD/bushel sau khi đạt mức cao nhất 2,5 năm trong phiên này.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa giảm 0,04 US cent hay 0,3% xuống 14,50 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 3,5 USD hay 0,9% xuống 393,3 USD/tấn.
Nhu cầu mua vào của các quỹ dường như đã cạn kiệt sau khi thúc đẩy đà tăng giá gần đây, và việc chốt lời đang gây áp lực cho thị trường đường.
Một thông báo về mức độ trợ cấp xuất khẩu đường của Ấn Độ trong niên vụ 2020/21 đã được rất nhiều người chờ đợi, một số lo ngại rằng các vấn đề tài chính do đại dịch Covid-19 có thể hạn chế sự hỗ trợ của chính phủ với ngành đường của nước này.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 lúc đóng cửa giảm 0,75 US cent hay 0,7% xuống 1.0415 USD/lb. Hợp đồng này đã chạm 1,0335 USD trong phiên này, giá thấp nhất đối với hợp đồng giao tháng tới kể từ ngày 22/7; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2021 giảm 10 USD hay 0,8% xuống 1.279 USD/tấn.
Giá cao su Nhật Bản tăng mạnh lên mức cao nhất 3 năm do nhu cầu mạnh từ Trung Quốc, khách mua hàng đầu thế giới và các nguồn cung giao ngay hạn chế hơn từ các nhà sản xuất Đông Nam Á do thời tiết xấu.
Hợp đồng cao su trên sàn giao dịch Osaka (OSE) giao tháng 3/2021 đóng cửa tăng 9,9 JPY hay 4,8% lên 217,4 JPY (2,07 USD)/kg, đạt mức cao nhất kể từ ngày 28/9/2017, cũng là ngày tăng theo phần trăm lớn nhất kể từ đầu tháng 12/2019.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 520 CNY lên 14.750 CNY (2.216 USD)/tấn, tiếp tục tăng phiên thứ 9 liên tiếp, chuỗi tăng giá dài nhất kể từ tháng 8/2013. Giá đã đạt mức cao nhất kể từ tháng 9/2017 trong đầu phiên giao dịch này.
Các đơn hàng mạnh mẽ từ nhà sản xuất lốp Trung Quốc sau tuần nghỉ lễ hồi đầu tháng này đã siết chặt các nguồn cung giao ngay, thúc đẩy giá của các hợp đồng kỳ hạn gần.
Sản lượng thấp hơn từ các nhà sản xuất Đông Nam Á do mưa kéo dài đã bổ sung lo sợ về nguồn cung, trong khi bất ổn chính trị gần đây tại Thái Lan cũng gây lo ngại về nguồn cung trong tương lai.
Nhu cầu tăng mạnh từ các nhà sản xuất găng tay trong bối cảnh đại dịch Covid-19 cũng là một yếu tố tăng giá cao su.
Giá hàng hóa sáng 22/10

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

39,85

-0,18

-0,45%

Dầu Brent

USD/thùng

41,58

-0,15

-0,36%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.580,00

-1.040,00

-3,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,01

-0,01

-0,43%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

113,36

-0,67

-0,59%

Dầu đốt

US cent/gallon

113,53

-0,46

-0,40%

Dầu khí

USD/tấn

328,00

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.550,00

-1.020,00

-2,34%

Vàng New York

USD/ounce

1.924,20

-5,30

-0,27%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.477,00

-17,00

-0,26%

Bạc New York

USD/ounce

25,11

-0,13

-0,52%

Bạc TOCOM

JPY/g

83,80

-0,60

-0,71%

Bạch kim

USD/ounce

890,97

+0,16

+0,02%

Palađi

USD/ounce

2.409,25

-2,99

-0,12%

Đồng New York

US cent/lb

318,85

-1,00

-0,31%

Đồng LME

USD/tấn

6.991,50

+92,50

+1,34%

Nhôm LME

USD/tấn

1.843,50

+9,00

+0,49%

Kẽm LME

USD/tấn

2.568,50

+39,00

+1,54%

Thiếc LME

USD/tấn

18.745,00

+75,00

+0,40%

Ngô

US cent/bushel

412,50

-1,25

-0,30%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

624,00

-5,75

-0,91%

Lúa mạch

US cent/bushel

298,00

-6,00

-1,97%

Gạo thô

USD/cwt

12,40

0,00

-0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

1.068,75

-2,75

-0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

378,40

-0,40

-0,11%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,00

-0,20

-0,60%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

547,30

-1,50

-0,27%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.426,00

+44,00

+1,85%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

104,15

-0,75

-0,71%

Đường thô

US cent/lb

14,50

-0,04

-0,28%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

109,45

-6,90

-5,93%

Bông

US cent/lb

71,07

+0,03

+0,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

522,00

-9,70

-1,82%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,50

-0,10

-0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,52

+0,05

+3,47%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg