Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 2% lên mức cao nhất 1 năm sau thống kê cho thấy các nhà sản xuất dầu lớn đang kiểm soát sản lượng gần đúng với cam kết.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tăng 1,11 USD (2%) lên 57,46 USD/thùng, tăng phiên thứ ba liên tiếp, sau khi có thời điểm trong ngày tăng mạnh lên 58,05 USD/thùng, mức cao nhất kể từ tháng 1/2020; giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,21 USD (2,3%) lên 54,76 USD/thùng, sau khi vọt lên 55,26 USD/thùng, mức cao nhất trong một năm.
Một cuộc khảo sát do hãng Reuters tiến hành cho thấy sản lượng dầu thô của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) trong tháng 1/2021 đã tăng tháng thứ 7 liên tiếp nhưng mức tăng này thấp hơn dự kiến. Việc tự nguyện cắt giảm 1 triệu thùng/ngày của Saudi Arabia, sẽ được thực hiện từ đầu tháng 2 đến tháng 3/2021. Sản lượng của Nga tăng trong tháng 1 nhưng phù hợp với hiệp ước sản lượng, trong khi sản lượng dầu của Kazakhstan giảm trong tháng này.
Đà tăng của giá dầu còn được thúc đẩy bởi Quốc hội Mỹ dường như đã sẵn sàng thông qua một gói kích thích kinh tế. Thêm vào đó, thời tiết lạnh giá tại Mỹ cũng thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ dầu sưởi ấm. Một nhân tố khác hỗ trợ giá dầu là việc Viện Xăng Dầu Mỹ cho biết lượng dầu và nhiên liệu tồn kho trong tuần thấp hơn.
Tuy nhiên, gã khổng lồ năng lượng BP đã đánh dấu một khởi đầu khó khăn trong năm 2021 khi nhu cầu đối với các sản phẩm dầu mỏ giảm. Theo BP, doanh số bán lẻ trong tháng Một đã giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn so với mức giảm 11% trong quý IV/2020.
BP dự báo nhu cầu dầu mỏ sẽ phục hồi vào năm 2021, với lượng tồn kho toàn cầu sẽ trở lại mức trung bình 5 năm vào giữa năm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng và giá bạc thế giới đồng loạt sụt giảm trong phiên giao dịch ngày 2/2. Đáng chú ý, giá bạc mất hơn 8% khi các nhà đầu tư nhỏ lẻ rút lui khỏi thị trường và bán tháo chốt lời sau khi giá bạc tăng lên mức đỉnh gần 8 năm trong phiên trước đó, nhờ hàng loạt bài đăng trên mạng xã hội đã thúc đẩy xu hướng mua vào.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 1,4%, xuống 1.835,11 USD/ounce; vàng kỳ hạn giảm 1,6%, xuống 1.833,40 USD/ounce.
Trong khi đó, giá bạc giao ngay giảm 8,2% xuống 26,59 USD/ounce; trước đó, trong phiên giao dịch ngày 1/2, giá bạc đã tăng 7,3% lên mức cao nhất kể từ tháng 2/2013; giá bạch kim giảm 3,5% xuống 1.088,59 USD/ounce, trong khi pallađi giảm 0,2% xuống 2.241,14 USD/ounce.
Nhà phân tích cấp cao Jim Wyckoff của Kitco Metals cho biết, nỗ lực của các nhà giao dịch nhỏ lẻ nhằm tạo sức ép đẩy giá bạc đi lên trong ngắn hạn đã tạm thời thất bại, và họ đã chuyển hướng sang tìm kiếm các thị trường khác.
Giá bạc giảm một phần do Tập đoàn CME đã tăng biên lợi nhuận duy trì đối với hợp đồng bạc tương lai lên 17,9% vào ngày 1/2 để ứng phó với sự biến động bất thường của thị trường. Ngoài ra, các bài đăng trên diễn đàn Reddit mới đây cũng đã khuyến khích các nhà giao dịch tránh xa bạc.
Sự thay đổi của thị trường bạc đã khiến cơ quan quản lý hàng hóa của Mỹ giám sát kỹ lưỡng hơn đối với thị trường này. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cho biết, sự gia tăng phối hợp đầu tư của các nhà giao dịch lẻ vào thị trường bạc sẽ chỉ đơn giản là làm tăng sự biến động và tạo ra sự chênh lệch nhỏ trong khu vực về động lực cung cầu.
Quỹ giao dịch trao đổi bạc lớn nhất thế giới, iShares Silver Trust, đã nắm giữ thêm khoảng 20 triệu ounce bạc vào ngày 1/2, sau khi thu về kỷ lục khoảng 34 triệu ounce vào cuối tuần trước.
Nhà phân tích James Steel của HSBC cho biết bạc có thể suy yếu nếu vàng không tăng cao hơn.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm về mức thấp nhất 6 tuần do các quỹ cắt giảm đặt cược giá tăng trước khi nhu cầu theo mùa tạm lắng trong kỳ nghỉ tết ở Trung Quốc, nơi chiếm 50% tiêu thụ toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, trên sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giao sau 3 tháng giảm 0,4% xuống 7.768 USD/tấn. Tuần trước, giá kim loại này đã giảm xuống 7.705 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 23/12/2020.
Dự trữ đồng tại sàn LME ở mức 74.225 tấn, gần mức thấp nhất 15 năm đã chạm tới vào tháng 9/2020. Tồn kho thấp đã gây lo ngại về khả năng đáp ứng thị trường khiến giá vàng giao ngay cao hơn so với giá giao sau 3 tháng 7 USD/tấn.
Giá quặng sắt giảm do các nhà đầu tư thận trọng trước đợt nghỉ Tết Nguyên đán bắt đầu từ ngày 11/2 tại Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên kết thúc ngày giảm 5,6% xuống 933,5 CNY (144,51 USD)/tấn, trước đó giá đã giảm xuống 925 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 10/12/2020.
Giá quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc ở mức 158 USD/tấn trong ngày 1/2, thấp nhất kể từ ngày 15/12/2020, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 3 tại Singapore đã giảm khoảng 6% xuống 142 USD/tấn sau đó đã tăng lên 143,4 USD/tấn, giảm 5,1%.
Do nhu cầu quặng sắt giảm, tồn kho ở các cảng ở Trung Quốc tăng tuần thứ 3 liên tiếp lên 126,20 triệu tấn tính tới ngày 29/1.
Ngoài việc nhu cầu tài sản rủi ro trước Tết suy yếu, giá sản phẩm thép và đầu vào bị áp lực giảm do lợi nhuận thép thấp tại Trung Quốc. Giá thép phiên vừa qua tiếp tục giảm, theo đó thép thanh tại Thượng Hải giảm 2,2%, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 1,8%. Thép không gỉ giảm 1,6%.
Sản lượng thép thanh hàng tuần của Trung Quốc từ 137 nhà sản xuất thép giảm 3,2% xuống 3,34 triệu tấn trong khoảng 21/1 tới 27/1, do lợi nhuận yếu và nhu cầu thấp thúc đẩy các nhà máy thực hiện bảo trì cơ sở của họ.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương tại sàn giao dịch Chicago giảm, bởi USD mạnh lên và vụ thu hoạch đậu tương đang tiến triển tại Brazil
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 10-1/2 US cent xuống 13,54-3/4 USD/bushel.
Khô đậu tương CBOT cùng kỳ hạn giảm 2,5 USD xuống 428 USD/tấn Mỹ, trong khi dầu đậu tương giảm 0,65 US cent xuống 44,32 US cent/lb.
Xuất khẩu ngũ cốc của Argentina bị gián đoạn bởi các rào cản xe tải thiết lập quanh cảng ở tỉnh Buenos Aires, nơi khoảng 80% các nhà cung cấp xuất khẩu khô đậu tương hàng đầu thế giới được vận chuyển.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 trên sàn London đóng cửa giảm 1,1 USD hay 0,24% xuống 463,6 USD/tấn, trước đó giá đã đạt cao nhất kể từ tháng 4/2017 tại 470,4 USD/tấn; đường thô giao cùng kỳ hạn tăng 0,14 US cent hay 0,87% lên 16,29 US cent/lb, trước đó có lúc đạt mức cao nhất trong 1,5 tuần. Nguồn cung đường khan hiếm có thể thấy khi mức cộng của cả hợp đồng đường thô và đường trắng giao tháng 3 với giao tháng 5 nới rộng. Tuy nhiên, đà tăng giá đường bị hạn chế trong dài hạn, các nhà máy Ấn Độ đã sản xuất 17,7 triệu tấn đường trong 4 tháng đầu của niên vụ 2020/21, tăng 25% so với một năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa giảm 1,95 US cent hay 1,56% xuống 1,2340 USD/lb. Dự báo giá cà phê arabica kết thúc năm nay sẽ cao hơn 8% so với giá hiện nay do thị trường này thiếu hụt trong niên vụ tới sau khi tiêu thụ hết dư thừa trong năm nay. Giá robusta giảm 21 USD hay 1,6% xuống 1.326 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê của Costa Rica giảm 37% trong tháng 1, theo số liệu từ Viện cà phê quốc gia ICAFE. robusta giảm 21 USD hay 1,6% xuống 1.326 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Quốc tế ICO cho biết thị trường cà phê toàn cầu dư thừa 5,26 triệu bao (60 kg/bao) trong niên vụ 2020/21, cao hơn mức dư thừa 4,14 triệu bao trong niên vụ 2019/20.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm sau khi chính phủ cho biết họ sẽ kéo dài tình trạng khẩn cấp để đối phó với đại dịch Covid-19, điều này có thể hạn chế hoạt động kinh tế và ảnh hưởng tới nhu cầu hàng hóa. Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 3,7 JPY hay 1,6% xuống 232,3 JPY/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải giảm 0,4% xuống 14.570 CNY/tấn.
Nhật Bản có thể gia hạn tình trạng khẩn cấp tại Tokyo và các khu vực khác thêm một tháng nữa, mặc dù số trường hợp nhiễm Covid-19 hàng ngày bắt đầu giảm.
Giá hàng hóa thế giới sáng 3/2/2021

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

54,88

+0,12

+0,22%

Dầu Brent

USD/thùng

57,58

+0,12

+0,21%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

36.380,00

+280,00

+0,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

54,88

+0,12

+0,22%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,26

+1,66

+1,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

167,94

+0,48

+0,29%

Dầu khí

USD/tấn

472,50

+0,75

+0,16%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

50.360,00

+460,00

+0,92%

Vàng New York

USD/ounce

1.841,80

+8,40

+0,46%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.218,00

-53,00

-0,85%

Bạc New York

USD/ounce

27,10

+0,69

+2,62%

Bạc TOCOM

JPY/g

92,00

-5,00

-5,15%

Bạch kim

USD/ounce

1.100,72

+2,45

+0,22%

Palađi

USD/ounce

2.253,89

+5,82

+0,26%

Đồng New York

US cent/lb

352,70

+0,25

+0,07%

Đồng LME

USD/tấn

7.777,00

-21,50

-0,28%

Nhôm LME

USD/tấn

1.972,50

+3,50

+0,18%

Kẽm LME

USD/tấn

2.569,50

-1,00

-0,04%

Thiếc LME

USD/tấn

22.990,00

-113,00

-0,49%

Ngô

US cent/bushel

540,75

-2,25

-0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

643,25

-1,50

-0,23%

Lúa mạch

US cent/bushel

345,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

13,36

+0,02

+0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.346,50

-8,25

-0,61%

Khô đậu tương

USD/tấn

426,70

-1,30

-0,30%

Dầu đậu tương

US cent/lb

43,77

-0,55

-1,24%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

550,80

-4,00

-0,72%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.499,00

+14,00

+0,56%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

123,40

-1,95

-1,56%

Đường thô

US cent/lb

16,29

+0,14

+0,87%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

106,85

-1,25

-1,16%

Bông

US cent/lb

80,69

+0,66

+0,82%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

857,40

-13,40

-1,54%

Cao su TOCOM

JPY/kg

159,30

-0,90

-0,56%

Ethanol CME

USD/gallon

1,75

0,00

0,00%

 

 

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg