Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm giữa bối cảnh nhà đầu tư lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung vaccine ngừa COVID-19 và các quy định mới hạn chế đi lại.
Kết thúc phiên này, dầu giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 51 US cent (1%), xuống 52,34 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 3/2021 cũng giảm 28 US cent (0,5%), xuống 55,53 USD/thùng.
Ông Jim Ritterbusch, Chủ tịch công ty dầu khí Ritterbusch & Associates ở Galena, Illinois (Mỹ), cho biết việc cắt giảm sản lượng sắp tới của Saudi Arabia có thể lấn át những lo ngại về nhu cầu tiêu thụ dầu liên quan đến dịch COVID-19.
Theo ông Ritterbusch cho biết, Saudi Arabia cam kết sẽ tự nguyện cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng/ngày vào tháng 2 và tháng 3/2021 như một phần của thỏa thuận của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, còn gọi là OPEC+.
Phiên trước đó, giá dầu được hỗ trợ bởi dữ liệu cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ giảm 10 triệu thùng trong tuần trước, do xuất khẩu dầu thô của Mỹ giảm và nhập khẩu giảm. Ngoài ra, chỉ số đồng USD đã đi xuống sau đà tăng trước đó, cũng giúp hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, lo ngại về nhu cầu đã đè nặng lên tâm lý giới đầu tư và khiến giá dầu không thể giữ được đà tăng trước đó. Nền kinh tế Mỹ năm 2020 rơi vào cuộc suy thoái sâu nhất kể từ Thế chiến thứ hai do đại dịch COVID-19 làm suy giảm chi tiêu tiêu dùng và đầu tư kinh doanh, đẩy hàng triệu người Mỹ mất việc làm và rơi vào cảnh nghèo đói.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm hơn 1%, do tồn trữ cao hơn so với dự kiến và dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới giảm nhẹ. Theo đó, khí tự nhiên kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn New York giảm 3,8 US cent tương đương 1,4% xuống 2,664 USD/mmBTU. Tồn trữ khí tự nhiên trong tuần trước giảm xuống 2,881 nghìn tỉ feet khối, tăng 9,3% so với mức trung bình 5 năm (2,637 feet khối) cùng thời điểm này trong năm trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giảm do đồng USD suy yếu, khiến bạc trở nên rẻ hơn đối với khách mua hàng ngoài Mỹ. Theo đó, vàng giao ngay giảm xuống 1.840,81 USD/ounce - thấp nhất kể từ ngày 18/1/2021, trong phiên có lúc giá tăng 1,1% và vàng kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn New York giảm 0,4% xuống 1.837,9 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay tăng gần 7% lên 26,95 USD/ounce, trước đó trong phiên giảm xuống 25,93 USD/ounce.
Theo các chuyên gia, giá vàng chịu sức ép khi Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo cho biết trong tuần kết thúc vào ngày 23/1, có 847.000 người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu, mức thấp nhất trong ba tuần.
Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng giá vàng vẫn nhận được hỗ trợ từ đánh giá gần đây của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Trong cuộc họp chính sách đầu tiên của năm 2021 vào hai ngày 26-27/1, chính sách của Fed nêu rõ: “Tốc độ phục hồi trong hoạt động kinh tế và việc làm đã chững lại trong những tháng gần đây, với sự yếu kém tập trung ở các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch COVID-19”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do đồng USD giảm, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng bạc xanh rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác. Cụ thể, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1% lên 7.773 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 7.705 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 23/12/2020. Lượng đồng lưu kho trên sàn London chạm mức thấp nhất kể từ tháng 9/2020 (76.350 tấn). Đồng thời, tồn trữ đồng tại Thượng Hải chạm mức thấp nhất kể từ năm 2011.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm gần 5% trong phiên vừa qua, là mức giảm mạnh nhất 4 tuần, do tiêu thụ thép trong lĩnh vực hạ nguồn suy yếu trước kỳ nghỉ lễ, trong khi chính phủ kêu gọi giảm sản lượng thép trong năm nay đã gây áp lực đối với nguyên liệu sản xuất thép.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Đại Liên giảm 4,8% xuống 986 CNY (152,14 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch giá quặng sắt giảm mạnh 5,5%. Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc không thay đổi ở mức 167,5 USD/tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,7% xuống 4.275 CNY/tấn và giá thép cuộn cán nóng giảm 1,5% xuống 4.423 CNY/tấn. Giá thép không gỉ giảm 1,6% xuống 14.215 CNY/tấn.
Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc cho biết, nhập khẩu thép của nước này sẽ tiếp tục tăng trong năm 2021 và khuyến khích mua sản phẩm thép sơ chế, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của việc sản xuất ít thép thô trong năm nay mà chính phủ đã kêu gọi. Hiệp hội cũng đề nghị chính phủ cải thiện các chính sách có liên quan, để giảm bớt sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nhập khẩu các nguyên liệu sản xuất thép như quặng sắt.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ duy trì vững sau khi tăng lên mức cao nhất 7,5 năm, được thúc đẩy bởi doanh số bán ngô Mỹ sang Trung Quốc.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 1/2 US cent lên 5,34-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,5-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 6/2013. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 21-1/2 US cent xuống 13,53-1/4 USD/bushel và giá lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 11-1/4 US cent xuống 6,47 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE giảm 0,21 US cent xuống 15,76 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2,8 USD xuống 441,6 USD/tấn.
Với mặt hàng cà phê, giá arabica tháng 3/2021 giảm 1,5 US cent tương đương 1,2% xuống 1,24 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 15 USD tương đương 1,1% xuống 1.303 USD/tấn.
Ở Châu Á, giá cà phê thị trường Việt Nam giảm so với 1 tuần trước đó, khi vụ thu hoạch kết thúc. Cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 70-80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn London, giảm so với mức cộng 80-90 USD/tấn hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2021 cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 31.500-31.700 VND (1,37 USD)/kg, giảm so với mức giá 31.200-32.000 VND/kg cách đây 1 tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm bởi lo ngại về nhu cầu tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – suy yếu, khi Bắc Kinh tăng cường các hạn chế nhằm ngăn chặn Covid-19 lây lan và lo ngại về sự chậm trễ trong việc phân phối vắc xin toàn cầu. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn Osaka giảm 1,9 JPY tương đương 0,8% xuống 227,4 JPY (2,2 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 90 CNY xuống 14.150 CNY (2.184 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 29/1/2021
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
52,37
|
+0,03
|
+0,06%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,67
|
+0,14
|
+0,25%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
35.070,00
|
+40,00
|
+0,11%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,69
|
+0,02
|
+0,90%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
158,07
|
-0,22
|
-0,14%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
160,20
|
+0,03
|
+0,02%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
450,25
|
-1,00
|
-0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.010,00
|
-240,00
|
-0,49%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.844,60
|
+3,40
|
+0,18%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.195,00
|
+34,00
|
+0,55%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
26,34
|
+0,42
|
+1,61%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
87,90
|
+3,00
|
+3,53%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.079,73
|
+2,30
|
+0,21%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.345,15
|
+4,18
|
+0,18%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
358,15
|
+0,35
|
+0,10%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.873,00
|
+48,00
|
+0,61%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.984,50
|
-7,50
|
-0,38%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.592,50
|
+9,00
|
+0,35%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
22.995,00
|
+190,00
|
+0,83%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
540,25
|
+5,75
|
+1,08%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
649,25
|
+2,25
|
+0,35%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
349,25
|
+2,50
|
+0,72%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,41
|
+0,02
|
+0,15%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.361,75
|
+8,50
|
+0,63%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
429,50
|
+2,40
|
+0,56%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
44,86
|
+0,21
|
+0,47%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
550,10
|
-8,00
|
-1,43%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.510,00
|
+6,00
|
+0,24%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
124,00
|
-1,50
|
-1,20%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,59
|
-0,21
|
-1,33%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
113,15
|
-1,15
|
-1,01%
|
Bông
|
US cent/lb
|
79,93
|
-0,91
|
-1,13%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
892,60
|
+27,60
|
+3,19%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
158,40
|
+1,70
|
+1,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,66
|
0,00
|
0,00%
|