Trên thị trường năng lượng, giá dầu đi xuống do lo ngại nhu cầu nhiên liệu sẽ giảm sút trong khi sản lượng từ OPEC+ sắp tăng lên.
Kết thúc phiên giao dịch, dàu Brent giảm 43 US cent (0,84%) xuống 50,86 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 61 US cent (1,26%) xuống 47,62 USD/thùng.
Lúc đầu phiên, giá dầu tăng mạnh, theo đó Brent vượt 52 USD/thùng nhờ những thông tin lạc quan về gói cứu trợ mới của Mỹ.
Ngày 27/12, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký ban hành dự luật cứu trợ COVID-19 trị giá khoảng 900 tỷ USD và dự luật ngân sách trị giá 1.400 tỷ USD nhằm duy trì hoạt động của các cơ quan chính phủ đến hết tài khóa 2021 và hỗ trợ nền kinh tế đang lao đao vì đại dịch, trong bối cảnh chỉ còn một ngày nữa là ngân sách tạm thời hết hạn.
Tuy nhiên, virus biến thể mới đã khiến ngày càng nhiều quốc gia siết chặt quy định về hạn chế đi lại, gây ảnh hưởng đến nhu cầu xăng dầu trong ngắn hạn, từ đó gây áp lực giảm giá, giữa bối cảnh số ca nhiễm và nhâp viện vì virus Covid-19 tăng mạnh ở nhiều khu vực của Châu Âu và Châu Phi.
Kết thúc phiên, dầu Brent ở mức 50,86 USD/thùng, giảm 43 US cent (0,84%) so với phiên liền trước, sau khi có thời điểm đạt 50,52 USD; dầu Tây Texas (WTI) giảm 61 US cent (1,26%) xuống 47,62 USD/thùng.
Lo ngại về những tác động tiêu cực của Covid-19 đang gia tăng khi kỳ nghỉ Giáng sinh và Năm mới chứng kiến ngày càng nhiều nước thực hiện giãn cách xã hội. Trong khi đó, OPEC+ dự kiến sẽ nâng sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày từ tháng 1/2021, và Nga đang mong muốn tăng thêm tương tự như vậy trong tháng tiếp theo – tháng 2. Theo kế hoạch, OPEC+ sẽ nhóm họp vào ngày 4/1 tới.
Giá than cốc tại Trung Quốc đã trải qua 3 phiên tăng liên tiếp do lượng nhập khẩu và tồn trữ đều giảm giữa bối cảnh các mỏ than bắt đầu kỳ bảo trì (khoảng 3-5 ngày), làm gia tăng lo ngại nguồn cung sẽ giảm sút.
Tồn trữ than luyện cốc tại các nhà máy luyện cốc và các nhà máy thép đã giảm xuống còn 18,36 triệu tấn tính đến 25/12, từ mức 18,49 triệu tấn của tuần trước đó, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Mối lo về nguồn cung càng gia tăng khi nhập khẩu than từ Australia vào Trung Quốc đã giảm gần 37% xuống còn 3,7 triệu tấn trong tháng 11/2020 (so với tháng 10/2020).
Phiên vừa qua, giá than cốc trên sàn Đại Liên, kỳ hạn giao tháng 5, tăng 5,4% lên 1.733 CNY (265,34 USD)/tấn, trước đó có thời điểm giá đạt 1.745 CNY/tấn; than cốc cũng tăng 3% lên 2.874 CNY/tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD và chứng khoán mạnh lên sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ký ban hành dự luật kích thích kinh tế mà Quốc hội Mỹ đã thông qua.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tương đối ổn định ở 1.875,99 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,2% xuống 1.880.4 USD/ounce.
Chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, Daniel Pavilonis, cho biết: "Chúng ta đang bước vào kỳ nghỉ lễ. Trên thực tế, có nhiều thứ không cần thay đổi ngay bây giờ”, và “Có thể đó chỉ do tác động từ thị trường tiền tệ (đồng USD), và cuối cùng thì giá vàng sẽ tiếp tục tăng”.
Chỉ số dollar index đã tăng trở lại, sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 1 tuần lúc trước đó, khiến giá vàng trở nên đắt đỏ đối với những người mua vằng các loại tiền tệ khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 3/2021 tăng 63,1 US cent, hay 2,44%, lên 26,539 USD/ounce; bạch kim kim giao tháng 1/2021 tăng 14,2 USD, hay 1,38%, lên 1.043,1 USD/ounce, palađi tăng 0,6% lên 2.335,52 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng trên sàn Thượng Hải tiếp tục tăng phiên thứ 3 liên tiếp do triển vọng nhu cầu sẽ được cải thiện sau khi Tổng thống Trump ký thông qua gói kích thích kinh tế, trong đó có 900 tỷ hỗ trợ những nạn nhân bị ảnh hưởng bởi Covid-19.
Trên sàn Thượng Hải, đồng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,9% lên 58.770 CNY (9.998,07 USD)/tấn.
Góp phần hỗ trợ giá đồng tăng là thông tin lợi nhuận của các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp của Trung Quốc tháng 11/2020 đã tăng tháng thứ 7 liên tiếp, nhờ doanh số tiêu thụ sản phẩm tăng mạnh mẽ kể từ sau đạt đại dịch Covid-19 bùng phát ở nước này hồi đầu năm.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên phiên vừa qua giảm 0,2% còn 1.032 CNY/tấn, trong khi quặng sắt 62% nhập khẩu cũng giảm xuống 166 USD/tấn ở phiên liền trước.
Giá thép xây dựng trên sàn Thượng Hải tăng 0,1% lên 4.278 CNY/tấn, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 1,3% xuống 4.475 CNY/tấn, và thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,4% lên 13.625 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương có lúc đạt mức cao nhất 6,5 năm, trước khi diễn ra các cuộc đàm phán liên quan đến cuộc đình công của công nhân ngành hạt có dầu ở Argentina. Tuy nhiên, sau đó giá đã giảm trở lại.
Kết thúc phiên giao dịch, đậu tương giảm 7-1/4 US cent xuống 12,57-1/4 USD/bushel, mức giảm mạnh nhất kể từ 8/12, sau khi có thời điểm đạt 12,8-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ 23/6/2014.
Một cuộc đình công của công nhân ngành hạt có dầu và ngũ cốc đã k hiến các cảng của Argentina bị tê liệt, hơn 140 tàu xuất khẩu bị mắc kẹt.
Trong khi đó, giá ngô được hỗ trợ bởi lượng xuất khẩu hàng tuần của Mỹ tăng mạnh và có hợp đồng mới bán 150.000 tấn đến địa chỉ chưa xác định. Phiên vừa qua, giá ngô trên sàn Chicago đã tăng tăng 5-1/2 US cent/lb lên 4,56-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ 15/7/2019.
Giá lúa mì Mỹ giảm do thời tiết ở các khu vực trồng lúa mì ở Mỹ tốt lên, đem lại hy vọng nguồn cung trên toàn cầu sẽ ổn định. Kết thúc phiên vừa qua, giá lúa mì trên sàn Chicago giảm 12-3/4 US cent xuống 6,14-1/4 USD/bushel.
Chủ tịch của Global Commodity Analytics, Mike Zuzolo, cho biết: “Hai yếu tố lớn nhất (tác động tới thị trường lúa mì) là thời tiết ở Mỹ và thuế xuất khẩu của Nga. "Tình trạng tuyết và mưa đã tốt lên ở khu vực trồng lúa mì của Mỹ”.
Giá đường thô kết thúc phiên vừa qua tăng 0,08% lên 14,98 US cent/lb, sau khi có thời điểm đạt 15.13 US cent/lb – cao nhất kể từ 27/11. Thị trường có dấu hiệu sôi động lên sau khi Indonesia cấp giấy phép mới cho nhập khẩu đường. Trong khi đó, các đại lý Ấn Độ cho biết tiếp tục nhận hợp đồng xuất khẩu đường vụ mới, với tổng khối lượng đơn hàng đã đạt 615.000 tấn.
Tuy nhiên, triển vọng vụ mùa mía Brazil phát triển thuận lợi đang hạn chế đà tăng giá.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 2,6 US cent (2,1%) xuống 1,2335 USD/lb. Sàn London vẫn đóng cửa nên chưa có giá mới cho cà phê robusta. Thời tiết ở Brazil đã có mưa, giúp cho cây cà phê hồi phục, trong khi lo ngại về nhu cầu lại gia tăng khi ngày càng nhiều nước phải đóng cửa lần nữa để ngăn chặn sự lây lan của viurs biến thể.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm trong phiên vừa qua, theo xu hướng giá ở Thượng Hải, do dịch Covid-19 vẫn đang lây lan nhanh gây tâm lý bi quan cho nhà đầu tư cao su.
Kết thúc phiên vừa qua, cao su kỳ hạn tháng 6 trên sàn Osaka giảm 7,9 JPY xuống 227,1 JPY (2,20 USD)/kg, thấp hơn 7,9 JPY so với lúc mở cửa. Hợp đồng này tuần qua đã mất giá 4,5% cũng do lo ngại về virus biến thể.
Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 5 cũng giảm 185 CNY (28,30 USD) xuống 14.015 CNY/tấn.
“Sản xuất (lốp xe) ở miền Bắc Trung Quốc cũng bị hạn chế vì lý do bảo vệ môi trường, trong khi ở miền Đông Trung Quốc, việc hạn chế sử dụng điện đã ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà máy", nhà phân tích Tang Xiaonan của JLC Network Technology Co Ltd. cho biết.
Mặt khác, tình trạng thiếu container vận chuyển cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu lốp xe. Tất cả những yếu tố này dẫn tới nhu cầu cao su nguyên liệu sụt giảm.
Giá hàng hóa thế giới sáng 29/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

47,97

+0,35

+0,74%

Dầu Brent

USD/thùng

51,21

+0,35

+0,69%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

32.730,00

+280,00

+0,86%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,32

+0,01

+0,48%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

137,39

+0,62

+0,45%

Dầu đốt

US cent/gallon

148,78

+0,88

+0,60%

Dầu khí

USD/tấn

425,75

-1,00

-0,23%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

47.800,00

+250,00

+0,53%

Vàng New York

USD/ounce

1.884,30

+3,90

+0,21%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.286,00

-15,00

-0,24%

Bạc New York

USD/ounce

26,72

+0,18

+0,66%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,30

+1,80

+2,01%

Bạch kim

USD/ounce

1.044,49

+10,22

+0,99%

Palađi

USD/ounce

2.355,27

+16,67

+0,71%

Đồng New York

US cent/lb

358,00

+0,90

+0,25%

Đồng LME

USD/tấn

7.787,50

-56,00

-0,71%

Nhôm LME

USD/tấn

2.030,00

+24,00

+1,20%

Kẽm LME

USD/tấn

2.842,50

+23,50

+0,83%

Thiếc LME

USD/tấn

20.185,00

+152,00

+0,76%

Ngô

US cent/bushel

456,00

-0,50

-0,11%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

612,25

-2,00

-0,33%

Lúa mạch

US cent/bushel

337,00

+0,25

+0,07%

Gạo thô

USD/cwt

12,30

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.254,75

-2,50

-0,20%

Khô đậu tương

USD/tấn

412,20

-0,50

-0,12%

Dầu đậu tương

US cent/lb

41,05

0,00

0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

626,50

-1,90

-0,30%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.560,00

-33,00

-1,27%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

123,35

-2,60

-2,06%

Đường thô

US cent/lb

14,98

+0,08

+0,54%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

122,20

+0,50

+0,41%

Bông

US cent/lb

76,35

+0,15

+0,20%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

775,00

-8,80

-1,12%

Cao su TOCOM

JPY/kg

152,70

-1,30

-0,84%

Ethanol CME

USD/gallon

1,49

+0,04

+2,76%

 

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg