Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau thông tin tồn trữ dầu thô tại Mỹ giảm và Vương quốc Anh thông qua đợt vaccine ngừa COVID-19 biến thể.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 25 US cent lên 51,34 USD/thùng, sau khi có thời điểm đạt 51,56 USD; dầu Tây Texas Mỹ (WTI) cũng tăng 40 US cent lên 48,40 USD/thùng.
Tuy nhiên, so với các mức lần lượt là 66 USD và 62 USD hồi đầu năm thì giá cả 2 loại hiện thấp hơn đáng kể. Giá hai loại dầu chủ chốt này đã đi xuống lúc đầu phiên giữa bối cảnh gói cứu trợ tài chính lớn hơn của Mỹ khó có khả năng xảy ra, làm giảm hy vọng về sự phục hồi nhanh chóng nhu cầu dầu, vốn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
Giá dầu đã tăng sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố báo cáo cho thấy lượng dầu thô dự trữ tại các kho ở nước này đã giảm 6,1 triệu thùng trong tuần gần nhất xuống 493,5 triệu thùng. Tuy nhiên, các nhà giao dịch lưu ý lượng dầu trong kho của Mỹ vẫn đang ở mức cao hơn 10% so với mức của tuần cuối cùng của năm 2019.
Về tình hình nguồn cung, theo dữ liệu từ công ty Baker Hughes, các công ty năng lượng Mỹ trong tuần này đã bổ sung thêm 3 giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên, đưa số lượng giàn khoan dầu đang hoạt động lên mức nhiều nhất trong một quý kể từ quý II/2017.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước liên minh, hay còn gọi là OPEC+, sẽ nhóm họp vào ngày 4/1. Nội dung của cuộc họp này dự kiến sẽ là tăng sản lượng dầu thêm 500.000 thùng/ngày vào tháng 1/2021.
Giá dầu cũng tăng một phần cũng bởi đồng USD chạm mức thấp nhất kể từ năm 2018 so với rổ tiền tệ, giúp giá dầu rẻ hơn cho những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngày 30/12, Anh đã trở thành quốc gia đầu tiên phê duyệt vaccine ngừa COVID-19 do Đại học Oxford và AstraZeneca phát triển với hy vọng việc đi lại và làm việc có thể bình thường hoá nhanh hơn. Trong khi đó, việc triển khai vaccine ngừa COVID-19 tại Mỹ diễn ra chậm hơn so với dự kiến trước đây. Tổng thống đắc cử Joe Biden của Mỹ ngày 29/12 cho biết khoảng 2 triệu người đã được tiêm chủng, thấp hơn nhiều so với con số 20 triệu người mà Tổng thống Donald Trump đã hứa hẹn vào cuối năm nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng giữa bối cảnh triển vọng tăng cường các gói cứu trợ tài khóa làm đồng USD giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai năm qua, mặc dù việc triển khai vaccine ngừa dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 trên toàn cầu và nhu cầu tăng cao của các nhà đầu tư đối với tài sản rủi ro đã hạn chế đà tăng của kim loại quý.
Phiên vừa qua, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.890,61 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,6% lên 1.893,40 USD/ounce.
Chuyên gia tích cấp cao của Kitco Metals, Jim Wyckoff cho biết: “Chỉ số đồng USD chạm mức thấp mới, điều này có lợi cho thị trường vàng và bạc”. Tuy nhiên, ông cho rằng nhu cầu của các nhà đầu tư đối với các tài sản rủi ro trên thị trường, thể hiện rõ qua các chỉ số chứng khoán ở gần các mức cao kỷ lục, đã thúc đẩy nhu cầu mua vào các loại tài sản này và hạn chế đà tăng của kim loại quý.
Đồng USD chạm mức thấp nhất kể từ tháng 4/2018 sau khi lãnh đạo phe đa số đảng Cộng hòa tại Thượng viện Mỹ Mitch McConnell quyết định hoãn nâng khoản cứu trợ cho các cá nhân từ 600 USD lên 2.000 USD.
Chứng khoán Mỹ tăng với kỳ vọng có thêm các gói kích thích tài chính bổ sung và tâm lý lạc quan của các nhà đầu tư về việc triển khai tiêm vaccine ngừa COVID-19 khi Vương quốc Anh trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới chấp thuận vaccine ngừa COVID-19 phát triển bởi AstraZeneca và đại học Oxford.
Vàng, vốn được coi là hàng rào chống lại lạm phát và đồng tiền mất giá bởi các các biện pháp kích thích lớn được trên khai trên toàn thế giới nhằm hạn chế thiệt hại kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra.
Trên thị trường kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,1% lên 26,46 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngay tăng 1,5% lên 1.065,26 USD/ounce, còn giá palladium tiến 1,9% lên 2.371,25 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong bối cảnh giao dịch trầm lắng ở thời điểm cuối năm và chịu áp lực lớn bởi số ca nhiễm virus Covid-19 biến thể mới gia tăng mạnh.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 7.842 USD/tấn vào lúc đóng cửa. Tuy nhiên, tính chung cả năm, giá vẫn tăng 27%, do Trung Quốc tăng cường kích thích kinh tế thông qua đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc giảm gần 6% trong phiên vừa qua sau khi Trung Quốc hối thúc ngành thép của mình cắt giảm sản lượng trong năm tới giữa bối cảnh Chính phủ lên kế hoạch giảm khí thải carbon.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Đại Liên giảm 3,5% xuống 984 CNY (150,65 USD)/tấn, thấp nhất trong vòng gần 3 tuần. Trong phiên, có thời điểm giá hợp đồng này chỉ 959 CNY (giảm 5,9%).
Trong khi đó giá thép tăng trong phiên này, với thép thanh vằn trên sàn Thượng Hải tăng 0,3% lên 4.256 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,3% lên 4.436 CNY/tấn, còn thép không gỉ kỳ hạn tháng 2 giảm 0,9% xuống 13.385 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ trong phiên vừa qua đạt mức cao kỷ lục 6 năm rưỡi sau khi Argentina – nước xuất khẩu hàng đầu thế giới – ra biện pháp hạn chế xuất khẩu ngũ cốc bởi thời tiết khô hạn đe dọa làm giảm sản lượng. Giá đậu tương phiên này cũng đạt mức cao nhất 6,5 năm cũng do do nhà đầu tư tập trung sự chú ý vào vấn đề thời tiết khô hạn ở Argentina.
Các nhà khí tượng học cho biết, ở một số nơi thuộc các khu vực đất nông nghiệp ở Brazil và Argentina đã có mưa, tuy nhiên tình trạng khô hạn quá mức vẫn diễn ra ở hầu hết các khu vực trồng trọt chính của 2 nước này.
Kết thúc phiên giao dịch đêm qua, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3 tăng 4-1/2 US cent lên 13-1/2 USD/bushel, sau khi có thii điểm đạt mức cao nhất kể từ tháng 6/2014; ngô giao cùng kỳ hạn cũng tăng 8-1/2 US cent lên 4,74-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ tháng 4/2014.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 22-1/4 US cent lên 6,4-3/4 USD/bushel.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 vững ở mức 1,273 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn giảm 7 USD (0,5%) xuống 1.376 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản – tham chiếu cho thị trường thế giới – giảm cùng xu hướng với giá ở sàn Thượng Hải do nhu cầu yếu.
Phiên vừa qua, cao su kỳ hạn tháng 6/2021 trên sàn Osaka giảm 3,9% xuống 226,9 JPY (2,2 USD)/kg; hợp đồng kỳ hạn tháng 5 trên sàn Thượng Hải giảm 185 CNY xuống 13.755 CNY (2.107,11 USD)/tấn.
Điều kiện không khí ở một số nơi thuộc miền Bắc Trung Quốc được cải thiện có thể giúp thúc đẩy hoạt động của các nhà máy sản xuất săm lốp ở những khu vực này, từ đó đẩy nhu cầu cao su đi lên.
Tuy nhiên, việc hạn chế sử dụng điện ở các tỉnh phía nam nước này cũng như xuất khẩu lốp xe giảm do dịch Covid-19 tiếp tục gây áp lực giảm giá.
Giá dầu cọ Malaysia phiên vừa qua tăng khi các thương gia dự báo xuất khẩu sẽ tăng và do giá dầu thực vật trên thị trường Trung Quốc tăng, mặc dù đà tăng bị kiềm chế bởi đồng ringgit mạnh lên.
Kết thúc phiên này, dầu cọ kỳ hạn tháng 3 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 35 ringgit (1%) lên 3.585 ringgit/tấn. Phiên trước đó, giá đã tăng 0,2%.
Xuất khẩu duu cọ của Malaysia tháng 12/2020 ước tính tăng gần 20% so với tháng trước đó, đạt khoảng 1,6 triệu tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 31/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,24

-0,16

-0,33%

Dầu Brent

USD/thùng

51,34

+0,25

+0,49%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

32.710,00

+90,00

+0,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,44

+0,01

+0,58%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

140,78

-0,42

-0,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

148,98

+0,30

+0,20%

Dầu khí

USD/tấn

426,25

+1,00

+0,24%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

47.620,00

-160,00

-0,33%

Vàng New York

USD/ounce

1.900,60

+7,20

+0,38%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.294,00

+15,00

+0,24%

Bạc New York

USD/ounce

26,74

+0,17

+0,63%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,70

-0,70

-0,77%

Bạch kim

USD/ounce

1.071,92

-0,10

-0,01%

Palađi

USD/ounce

2.370,44

+5,15

+0,22%

Đồng New York

US cent/lb

354,80

-0,10

-0,03%

Đồng LME

USD/tấn

7.847,50

-12,00

-0,15%

Nhôm LME

USD/tấn

1.999,50

+8,50

+0,43%

Kẽm LME

USD/tấn

2.784,50

+22,50

+0,81%

Thiếc LME

USD/tấn

20.335,00

-51,00

-0,25%

Ngô

US cent/bushel

479,50

+5,00

+1,05%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

643,00

+2,25

+0,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

348,00

-1,00

-0,29%

Gạo thô

USD/cwt

12,49

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.312,00

+11,50

+0,88%

Khô đậu tương

USD/tấn

431,10

+3,30

+0,77%

Dầu đậu tương

US cent/lb

42,03

+0,17

+0,41%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

633,00

+0,10

+0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.597,00

+90,00

+3,59%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

125,40

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

15,28

+0,24

+1,60%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

125,95

+1,40

+1,12%

Bông

US cent/lb

77,97

+0,96

+1,25%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

745,00

-32,00

-4,12%

Cao su TOCOM

JPY/kg

151,30

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,52

+0,01

+0,86%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg