Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khi các nhà giao dịch đánh giá chính sách sản lượng dầu mới nhất của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất "vàng đen" đồng minh, được gọi là OPEC+.
Kết thúc phiên này, dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2021 tăng 36 US cent lên 45,64 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao tháng 2/2021 tăng 46 US cent, lên 48,71 USD/thùng.
OPEC+ đã nhất trí tăng sản lượng dầu thêm 500.000 thùng/ngày từ tháng 1/2021 và thông báo sẽ họp hàng tháng để quyết định về sản lượng "vàng đen". Điều này có nghĩa OPEC+ sẽ cắt giảm sản lượng dầu 7,2 triệu thùng/ngày từ đầu năm tới, thay vì cắt giảm 7,7 triệu thùng/ngày như hiện nay. Được biết, đầu năm nay, OPEC+ đã cắt giảm sản lượng sâu hơn khi đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 khiến nhu cầu nhiên liệu của toàn cầu sụt giảm và kéo giá dầu xuống.
Hy vọng việc nhanh chóng phê duyệt vắc xin phòng Covid-19 đã thúc đẩy giá dầu tăng vào cuối tháng 11, đưa giá dầu Brent tăng 27% trong cả tháng 11.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do đồng USD suy yếu và giới đầu tư duy trì kỳ vọng vào bước đột phá trong đàm phán về gói cứu trợ mới của Mỹ liên quan đến đại dịch COVID-19.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4%, lên 1.838 USD/ounce. Giá vàng giao kỳ hạn cũng tăng 0,6% lên 1.841 USD/ounce.
Các nhà lập pháp Mỹ đang nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận về gói cứu trợ mới nhằm vực dậy nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng COVID-19, giữa bối cảnh đề xuất của một nhóm nghị sỹ của đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ về các biện pháp hỗ trợ trị giá 908 tỷ USD đang thu hút sự chú ý. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với một dự luật cứu trợ.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures cho hay, ông Joe Biden có thể đưa ra thêm các gói kích thích kinh tế mới.
Sự lạc quan về một thỏa thuận cứu trợ kinh tế của Mỹ và tiến triển trong việc phát triển vắc-xin ngừa COVID-19 đã khiến chỉ số đồng USD tiến gần hơn mức thấp nhất trong hai năm, qua đó thúc đẩy sức hút của vàng đối với các nhà đầu tư nắm đang nắm giữ loại tiền tệ khác.
Vàng, vốn được coi là hàng rào chống lạm phát và đồng tiền giảm giá, đã tăng hơn 21% trong năm nay, được hưởng lợi từ việc lãi suất gần bằng 0% và nguy cơ lạm phát cao hơn do các gói kích thích lớn chưa từng có trên toàn cầu để giảm bớt những tác động kinh tế từ đại dịch COVID-19.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim có lúc chạm mức đỉnh gần mười một tháng, đứng ở mức 1.034 USD/ounce. Chốt phiên, giá bạch kim tăng 1,3%, lên 1.028,07 USD/ounce. Trong khi đó, giá palađi giảm 4% xuống 2.301,68 USD/ounce, sau khi giảm mạnh tới 7,3% trước đó và giá bạc giảm 0,4%, xuống 24 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên gần sát mức cao nhất trong 7,5 năm bởi nhà đầu tư lạc quan về số liệu kinh tế từ nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc và tiến triển của vắc xin Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,1% lên 7.678,5 USD/tấn, giá đã đạt mức cao nhất kể từ tháng 3/2013 tại 7.743 USD trong ngày 1/12. Giá đồng đã tăng 76% kể từ tháng 3 đến nay.
Số liệu sản xuất và dịch vụ của Trung Quốc trong tuần này cho thấy sự phục hồi đáng kể tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Chỉ số S&P 500 và Nasdaq chạm mức cao kỷ lục và đồng USD suy yếu khiến kim loại này rẻ hơn cho người mua khi sử dụng các đồng tiền khác.
Giá quặng sắt của Trung Quốc cũng tăng lên mức cao kỷ lục sau khi hãng Vale SA công bố mục tiêu sản lượng thấp hơn trước đây, làm gia tăng lo ngại về nguồn cung khan hiếm.
Kết thúc phiên vừa qua, quặng sắt trên sàn giao dịch Đại Liên tăng 1,7% lên 937 CNY (142,86 USD)/tấn. Giá đã tăng gần 80% trong năm nay, trở thành mặt hàng tăng mạnh nhất.
Trên sàn giao dịch Singapore quặng sắt tăng 1,1% lên 132,5 USD/tấn, tăng phiên thứ 8 liên tiếp.
Công ty Vale của Brazil đã giảm sản lượng năm 2020 xuống 300 triệu tới 305 triệu tấn, so với mục tiêu trước đó ít nhất là 310 triệu tấn. Sản lượng năm 2021 dự báo đạt 315 tới 335 triệu tấn trong đó tính tới tình trạng mưa và các rủi ro khác, cũng khiến một số nhà phân tích thất vọng.
Giá quặng sắt giao ngay tăng vọt lên 133,5 USD/tấn trong ngày 2/12, cao nhất kể từ tháng 1/2014, theo công ty tư vấn SteelHome.
Nhu cầu quặng sắt của Trung Quốc mạnh trong nửa cuối năm 2020 do nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trở thành quốc gia đầu tiên phục hồi hoàn toàn sau đại dịch Covid-19.
Nhu cầu đang tăng và nguồn cung yếu hơn dẫn tới thị trường quặng sắt ở nước ngoài hạn hẹp.
Giá thép giảm trở lại sau khi tăng gần đây, với thép thanh tại Thượng Hải giảm 1,2% trong khi thép cuộn cán nóng giảm 0,2%, thép không gỉ ổn định.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 lúc đóng cửa tăng 0,11 US cent hay 0,76% lên 14,71 US cent/lb, giá đã xuống mức thấp nhất trong 3 tuần ở phiên giao dịch trước đó. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 2,5 USD hay 0,63% lên 403,6 USD/tấn. Ai Cập gia hạn cấm nhập khẩu với đường trắng và đường thô trong 3 tháng.
USD giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm khiến các hàng hóa định giá bằng USD như đường và cà phê rẻ hơn đối với các nhà đầu tư sử dụng đồng tiền khác.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 lúc đóng cửa tăng 0,95 US cent hay 0,8% lên 1.2005 USD/lb; cà phê robusta cùng kỳ hạn tăng 7 USD hay 0,5% lên 1.371 USD/tấn.
Ở Châu Á, giá cà phê Việt Nam giảm so với tuần trước do nguồn cung đang tăng khi vụ thu hoạch vụ 2020/21 được tăng cường. Ở Tây Nguyên, cà phê nhân xô được chào bán giá 32.700 – 33.400 đồng/kg so với 33.000 – 33.500 đồng một tuần trước. Chất lượng cà phê niên vụ 2020/21 không tốt như vụ trước. Trong khi đó, các thương nhân chào giá cà phê xuất khẩu (robusta loại 2 với 5% hạt đen và vỡ) ở mức cộng 100 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn London, một tuần trước mức cộng là 70 – 80 USD/tấn. Việt Nam đã xuất khẩu 70.000 tấn cà phê trong tháng 11, giảm 37,5% so với cùng tháng năm trước.
Indonesia đã xuất khẩu 26.399 tấn cà phê robusta từ tỉnh Lampung trong tháng 11. Cà phê robusta từ đảo Sumatra được chào ở mức cộng 200 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 trong tuần này, tăng từ 150 USD trong tuần trước.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong gần 5 tuần do sự phục hồi vững trong nhu cầu tiêu dùng tại Trung Quốc và nguồn cung thắt chặt hơn từ Đông Nam Á.
Hợp đồng cao su giao tháng 5/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 8,3 JPY hay 3,2% lên 266 JPY (2,6 USD)/kg, sau khi đã chạm mức cao nhất kể từ ngày 30/10 tại 266,7 JPY trong đầu phiên giao dịch này.
Hợp đồng cao su Thượng Hải giao tháng 5/2021 tăng 75 CNY lên 15.625 CNY (2.382 USD)/tấn.
Giá cao su giao ngay mạnh hơn tại Thái Lan phản ánh sản lượng giảm và nhu cầu mạnh từ Trung Quốc.
Giá hàng hóa thế giới sáng 4/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,72

+0,08

+0,18%

Dầu Brent

USD/thùng

48,71

+0,46

+0,95%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.940,00

+80,00

+0,26%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,50

0,00

-0,12%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

126,55

+0,38

+0,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

139,19

-0,14

-0,10%

Dầu khí

USD/tấn

396,50

+6,00

+1,54%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

46.120,00

-170,00

-0,37%

Vàng New York

USD/ounce

1.843,50

+2,40

+0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.161,00

-6,00

-0,10%

Bạc New York

USD/ounce

24,17

+0,03

+0,14%

Bạc TOCOM

JPY/g

80,80

-0,40

-0,49%

Bạch kim

USD/ounce

1.029,41

-3,69

-0,36%

Palađi

USD/ounce

2.326,12

+6,65

+0,29%

Đồng New York

US cent/lb

348,30

-0,75

-0,21%

Đồng LME

USD/tấn

7.673,00

-21,50

-0,28%

Nhôm LME

USD/tấn

2.055,00

-9,50

-0,46%

Kẽm LME

USD/tấn

2.747,50

-22,50

-0,81%

Thiếc LME

USD/tấn

18.790,00

-105,00

-0,56%

Ngô

US cent/bushel

426,50

+2,75

+0,65%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

584,50

-4,00

-0,68%

Lúa mạch

US cent/bushel

300,75

+4,25

+1,43%

Gạo thô

USD/cwt

12,33

-0,12

-1,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.168,25

+15,25

+1,32%

Khô đậu tương

USD/tấn

390,00

+4,40

+1,14%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,73

+0,81

+2,19%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

589,10

+9,50

+1,64%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.651,00

+13,00

+0,49%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

120,05

+0,95

+0,80%

Đường thô

US cent/lb

14,71

+0,11

+0,75%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

126,80

+1,15

+0,92%

Bông

US cent/lb

71,11

-0,49

-0,68%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

660,00

+11,00

+1,69%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,30

-2,20

-1,31%

Ethanol CME

USD/gallon

1,34

-0,02

-1,48%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg