Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trong bối cảnh Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nước liên minh, còn gọi là OPEC+, chưa quyết định được có tăng sản lượng trong tháng Hai hay không.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 71 US cent (1,4%) xuống 51,09 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 90 US cent (1,9%) xuống 47,62 USD/thùng.
Trong phiên, có thời điểm giá dầu WTI đã đạt cao nhất kể từ tháng 2/2020; dầu Brent cao nhất kể từ tháng 3/2020.
Trong cuộc họp ngày 4/1, OPEC + chưa quyết định được có tăng sản lượng trong tháng 2/2021 hay không và sẽ tiếp tục các cuộc đàm phán trong ngày 5/1 sau khi Saudi Arabia phản đối việc tăng sản lượng do tình hình diễn biến dịch COVID-19 phức tạp hơn còn Nga lại kêu gọi tăng sản xuất với lý do nhu cầu phục hồi.
Trước đó, Tổng Thư ký OPEC Mohammad Barkindo cho biết ngoài những yếu tố thuận lợi, thị trường dầu thế giới sẽ còn phải đối mặt với nhiều rủi ro bất lợi trong nửa đầu năm 2021, khiến triển vọng của giai đoạn này rất trái chiều.
Chỉ số S&P 500 và chỉ số Dow cũng giảm từ mức kỷ lục khi Tổng thống Donald Trump công du Georgia trong nỗ lực để giữ Thượng viện Mỹ trong tay Đảng Cộng hòa trước cuộc bầu cử sắp kết thúc ngày 5/1.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh trên 2%, đạt mức cao nhất trong gần hai tháng trước thềm cuộc bỏ phiếu vào hai ghế Thượng viện Mỹ tại bang Georgia.
Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 2,4% lên 1.943,13 USD/ounce, trong phiên có lúc giá đạt mức cao nhất vào ngày 9/11/2020 là 1.944,11 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 2,7% lên 1.946,60 USD/ounce.
Ông Jeffrey Sica, người sáng lập công ty tư vấn tài chính Circle Squared Alternative Investments, cho biết giá vàng tăng khá mạnh trong phiên này là do thị trường đang theo dõi cuộc bầu cử Thượng viện sắp diễn ra vào ngày 5/1 (giờ địa phương) ở bang Georgia. Kết quả cuộc bầu cử này sẽ quyết định đảng nào kiểm soát Thượng viện Mỹ. Nếu đảng Dân chủ của Tổng thống đắc cử Joe Biden giành được quyền kiểm soát cả hai viện của Quốc hội Mỹ, chính quyền của ông sẽ có thêm thuận lợi trong việc thúc đẩy nhiều biện pháp, như điều chỉnh chính sách thuế nhằm tăng cường chi tiêu cho các gói kích thích và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Chỉ số đồng USD –so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này giảm 0,11% xuống 89,87 và ở quanh mức thấp nhất của 2 năm rưỡi. Sự yếu đi của đồng bạc xanh luôn làm tăng sức hấp dẫn của các tài sản không sinh lời như vàng đối với các nhà đầu tư nắm giữ những loại tiền tệ khác.
Đồng thời, nhiều nhà đầu tư coi vàng như một “hàng rào” chống lại lạm phát và mất giá tiền tệ mà họ lo ngại có thể là kết quả của các biện pháp kích thích lớn.
Trong khi đó, nhà phân tích Rhona O'Connell của công ty tư nghiên cứu thị trường StoneX cho biết diễn biến dịch Covid-19 ở Nam Phi phức tạp có khả năng tác động đến giá kim loại quý này.
Bà lưu ý lệnh cấm đối với các chuyến bay ra khỏi Nam Phi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nhiều kim loại quý, đánh chú ý nhất là vàng và bạch kim. Chúng thường được vận chuyển bằng đường hàng không, phần lớn trên các chuyến bay chở khách.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 0,4% xuống 1.063,87 USD sau khi chạm mức cao nhất kể từ tháng 8/2016 là 1.127,82 USD/ounce trong cùng phiên; giá bạc tăng 3,1% lên 27,17 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel tăng lên mức cao nhất 2 tuần do lo ngại về các nguồn cung cấp sau khi động đất tại Indonesia, trong khi các kim loại cơ bản nói chung tăng bởi đồng USD giảm giá và hoạt động sản xuất mạnh mẽ tại Trung Quốc và Châu Âu.
Trên sàn London, nickel kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 4,9% lên 17.420 USD/tấn, sau khi có thời điểm chạm 17.520 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 21/12.
Một cuộc khảo sát cho thấy hoạt động sản xuất tại khu vực Eurozone kết thúc năm 2020 tăng với tốc độ nhanh nhất kể từ giữa năm 2018. Hoạt động sản xuất tại Trung Quốc trong tháng 12/2020 cũng duy trì đà phục hồi lên mức trước đại dịch.
Giá sắt thép tại Trung Quốc cũng đều tăng trong phiên vừa qua. Hiện quặng sắt đã cao gấp đôi so với giá cùng kỳ năm ngoái do nguồn cung khan hiếm và một số nhà phân tích đã mô tả là nhu cầu mạnh của Trung Quốc với nguyên liệu thô này. Trung Quốc ước sản xuất hơn 1 một tỷ tấn thép thô lần đầu tiên trong năm 2020 và một cơ quan tư vấn của chính phủ gần đây dự kiến sản lượng sẽ tăng tiếp 1,4% trong năm nay. Trung Quốc dự định xây dựng một hay hai mỏ quặng sắt ở nước ngoài vào năm 2025 để tăng nguồn cung và tăng cường việc định giá của mình.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa tăng 1,7% lên 15,76 US cent/lb, giá đạt 16,13 US cent trong phiên này, mức giá cao nhất kể từ tháng 5/2017. Giá đường đã tăng 15% trong năm ngoái. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 2,2% lên 430,3 USD/tấn, đạt mức cao nhất trong gần một năm. Trong năm ngoái đường trắng tăng 17,2%.
Nguồn cung đường thế giới đang khan hiếm vì nhà sản xuất đường hàng đầu Brazil đang không trong vụ thu hoạch, xuất khẩu của Ấn Độ không thể bù đắp cho sự chậm trễ trong đầu vụ và sản lượng tại Thái Lan vẫn gây thất vọng. Các nhà máy đường Ấn Độ đã sản xuất 11 triệu tấn đường trong 3 tháng đầu năm 2020/21 tăng 42% so với một năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 chốt phiên vừa qua giảm 2,1 US cent hay 1,6% xuống 1,2615 USD/lb, đảo lại chiều tăng ban đầu khi giá lên mức cao nhất trong gần 4 tháng. Hợp đồng này đã mất 1,1% trong năm ngoái do sản lượng lớn tại Brazil, mặc dù triển vọng sản lượng ít hơn trong năm nay giúp củng cố giá. Lượng mưa trong tháng 12/2020 tại các vùng cà phê arabica của Brazil đã vượt mức trong bình 5 năm vào tháng này, có thể sẽ cải thiện triển vọng năm 2021.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 14 USD hay 1% xuống 1.372 USD/tấn.
Giá cao su Nhật Bản tăng theo thị trường Thượng Hải do hy vọng nhu cầu tăng sau đợt nghỉ lễ.
Hợp đồng cao su trên sàn giao dịch Osaka kỳ hạn tháng 6 đóng cửa tăng 13,5 JPY lên 240,4 JPY/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải tăng 445 CNY lên 14.254 CNY/tấn.
Các nhà phân tích dự kiến nhu cầu cao su tại Trung Quốc cải thiện nhẹ sau đợt nghỉ Tết cuối tuần đã thúc đẩy giá.
Giá hàng hóa thế giới sáng 5/1
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
47,66
|
+0,04
|
+0,08%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
51,09
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.430,00
|
-1.070,00
|
-3,19%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,62
|
+0,03
|
+1,32%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
137,25
|
-0,04
|
-0,03%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
146,09
|
-0,11
|
-0,08%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
417,50
|
-2,25
|
-0,54%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
47.160,00
|
-1.230,00
|
-2,54%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.941,60
|
-5,00
|
-0,26%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.433,00
|
+49,00
|
+0,77%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
27,26
|
-0,10
|
-0,38%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
90,80
|
-0,40
|
-0,44%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.065,52
|
-8,29
|
-0,77%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.379,13
|
-4,14
|
-0,17%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
357,00
|
+1,55
|
+0,44%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.860,50
|
+94,50
|
+1,22%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.031,50
|
+52,00
|
+2,63%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.792,00
|
+41,00
|
+1,49%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.049,00
|
+724,00
|
+3,56%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
484,25
|
+0,50
|
+0,10%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
641,50
|
-0,50
|
-0,08%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
353,75
|
-2,25
|
-0,63%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,73
|
+0,04
|
+0,28%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.320,75
|
+7,75
|
+0,59%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
424,30
|
+0,60
|
+0,14%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
42,31
|
+0,18
|
+0,43%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
636,80
|
+1,10
|
+0,17%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.552,00
|
-51,00
|
-1,96%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
126,15
|
-2,10
|
-1,64%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,76
|
+0,27
|
+1,74%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
122,85
|
-2,65
|
-2,11%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,97
|
+0,85
|
+1,09%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
700,60
|
-16,30
|
-2,27%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
157,60
|
-0,90
|
-0,57%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,57
|
+0,04
|
+2,82%
|