Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng do có những dấu hiệu về việc thắt chặt nguồn cung năng lượng.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng Ba tăng 54 US cent, chốt phiên ở mức 56,23 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 4/2021 tăng 38 US cent lên 58,84 USD/thùng.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh, được gọi là OPEC+, trong tháng Một đã nhất trí tiếp tục duy trì hạn chế việc khai thác trong tháng Hai và tháng Ba.
Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới, đã cam kết tự nguyện cắt giảm sản lượng dầu 1 triệu thùng/ngày ngoài hạn ngạch mà OPEC+ đề ra trong hai tháng nói trên.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo thuộc UBS Global Wealth Management, nhận định: “Chúng tôi tin tưởng OPEC+ vẫn duy trì việc kiểm soát toàn thị trường dầu mỏ”. Theo ông, việc triển khai tiêm vaccine ngừa dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19, sẽ hỗ trợ nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong những tháng tới và có thể đẩy giá dầu tăng cao hơn nữa.
Trong khi đó, ngày 3/2, Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ thông báo dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần tính đến hết ngày 29/1 giảm 1 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng thế giới giảm hơn 2% xuống dưới 1.800 USD/ounce giữa bối cảnh đà tăng của đồng USD và lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ làm giảm sức hấp dẫn của kim loại quý này.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 2,3% xuống 1.791,76 USD/ounce, sau khi có thời điểm giảm xuống 1.784,76 USD/ounce, mức thấp nhất trong hơn hai tháng; vàng giao sau giảm 2,4% xuống đóng cửa ở mức 1,791,20 USD/ounce.
Tương tự như vàng, giá bạc giảm 2,3% xuống 26,26 USD/ounce. Giá bạc đã giảm hơn 13% kể từ khi lên mức cao nhất trong gần tám năm, do các nhà đầu tư bán lẻ chuyển từ cổ phiếu của GameStop Corp và một số công ty khác sang tập trung vào kim loại quý này.
Chuyên gia Bart Melek, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa tại TD Securities, nhận định đà tăng của lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ đẩy chi phí nắm giữ vàng lên cao hơn. Bên cạnh đó, giá vàng thậm chí có thể giảm thấp hơn trước đồn đoán kinh tế Mỹ nói riêng và kinh tế toàn cầu nói chung đang trên đà phục hồi. Thống kê cho thấy số người Mỹ nộp đơn xin thất nghiệp mới giảm trong tuần trước.Tuy nhiên, chuyên gia Melek lưu ý bạc có thể được hưởng lợi nhờ nhu cầu sản xuất công nghiệp gia tăng.
Một nhân tố khác gây bất lợi cho giá vàng là sự mạnh lên của đồng USD, vốn khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác. Phiên này, đồng bạc xanh đã tăng lên mức cao nhất trong hơn hai tháng.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thiếc tăng trở lại mức cao nhất trong 7 năm như hôm đầu tuần do sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung tại hệ thống sàn giao dịch kim loại London. Lượng thiếc lưu kho trên sàn LME hiện gần mức thấp nhất trong lịch sử và các thương nhân đang trả phí bảo hiểm khổng lồ cho các hợp đồng hứa hẹn giao hàng nhanh chóng.
Giá thiếc trên sàn LME tăng 0,2% lên 22.985 USD/tấn, giá đã đạt 23.435 USD, cao nhất kể từ năm 2014 trong ngày 2/2. Giá thiếc đã tăng 13% trong năm nay sau khi tăng 18% trong năm 2020. Lượng thiếc lưu kho trên sàn LME đã giảm từ 5.500 tấn trong tháng 10/2020 xuống 810 tấn, gần mức thấp kỷ lục. Tuy nhiên, tồn kho tại sàn giao dịch Thượng Hải tăng trong những tháng gần đây lên 6.155 tấn.
Hiệp hội Thiếc Quốc tế trong tháng 12/2020 cho biết thị trường này dự kiến thiếu hụt 2.700 tấn trong năm 2021 sau khi thiếu hụt 5.200 tấn trong năm 2020. Dự báo giá có thể tăng tiếp với nhu cầu mạnh theo mùa sau đợt nghỉ Tết Nguyên đán trong tháng này nhưng sẽ giảm xuống khoảng 20.000 USD vào cuối năm nay.
Giá quặng sắt tăng mạnh sau khi hãng Vale công bố số liệu sản xuất hàng năm yếu kém do đại dịch và hậu quả từ thảm họa vỡ đập hai năm trước.
Giá quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên lúc đóng cửa tăng 5,3% lên 991 CNY (153,41 USD)/tấn sau hai ngày sụt giảm. Trong khi đó, tại Singapore, quặng sắt tăng 5,2% lên 154,5 USD/tấn. Quặng sắt nhập khẩu cũng tăng mạnh, hiện đạt trên 150 USD/tấn do hy vọng sản lượng thép mạnh ở ngoài Trung Quốc. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 2%, thép cuộn cán nóng tăng 1,3% và thép không gỉ tăng 0,7%.
Công ty Vale báo cáo sản lượng quặng sắt năm 2020 sụt giảm 0,5% xuống 300,4 triệu tấn, mặc dù đã đánh dấu sự phục hồi tiềm năng cả về sản lượng và doanh số trong năm nay. Sản lượng đã sụt giảm 5% so với quý trước do lượng mưa tăng và những hạn chế về xử lý chất thải.
Một báo cáo cho thấy ngân hàng trung ương Trung Quốc sẽ giữ thanh khoản dồi dào hợp lý để hỗ trợ sự phục hồi kinh tế cũng thúc đẩy tâm lý.
Trên thị trường nông sản, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa tăng 2,8 USD hay 0,5% lên 465,4 USD/thùng; đường thô giao cùng kỳ hạn ổn định ở 16,05 US cent/lb.
Nguồn cung đường trắng vẫn hạn chế bởi nhu cầu mạnh và tình trạng thiếu hụt container vận chuyển đã thúc đẩy những người cần đường tìm kiếm trên sàn giao dịch.
Sản lượng mía đường của Thái Lan dự kiến phục hồi trong niên vụ 2021/22 do nhà máy thanh toán cho người trồng mía giá cao hơn được xem là thúc đẩy việc trồng trọt.
Các đại lý cho biết việc bán tháo đường đáng kể khó xảy ra trong ngắn hạn, nhưng giá đường có thể thoái lui khi vụ thu hoạch sắp tới từ nhà sản xuất hàng đầu Brazil diễn ra.
Với mặt hàng cà phê, giá robusta kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 20 USD hay 1,5% lên 1.343 USD/tấn, tăng mạnh phiên thứ 2 liên tiếp và đã đạt 1.346 USD, cao nhất một tháng. Trong khi đó, giá arabica kỳ hạn tháng 3 thay đổi ít tại 1.2405 USD/lb. Thị trường robusta đã được hỗ trợ bởi tiêu thụ cà phê trong nước mạnh do đại dịch, gồm doanh số cà phê hòa tan tăng.
Tại Việt Nam giá cà phê trong nước không đổi trong bối cảnh giao dịch chậm lại. Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá khoảng 31.200 – 31.700 đồng (1,35 – 1,39 USD)/kg, không đổi so với tuần trước. Cà phê robusta loại 2 xuất khẩu (5% hạt đen và vỡ) giá cộng 90 – 100 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5, tăng so với mức cộng 70 – 80 USD một tuần trước đây. Xuất khẩu cà phê từ Việt Nam tháng 1/2021 ước tính giảm 17,6% tso với cùng tháng năm trước, xuống 120.000 tấn, tương đương 2 triệu bao loại 60 kg/bao.
Tại Indonesia đã xuất khẩu 8.055,9 tấn cà phê robusta Sumatra từ tỉnh Lampung trong tháng 1, giảm 18% so với một năm trước. Cà phê robusta tại tỉnh Lampung được chào bán ở mức cộng 250 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3 và ở mức cộng 290 USD so với hợp đồng tháng 4, không đổi so với tuần trước, do nguồn cung vẫn khan hiếm trước vụ thu hoạch.
Giá hàng hóa thế giới sáng 5/2/2021
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,68
|
+0,45
|
+0,80%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
59,24
|
+0,40
|
+0,68%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.590,00
|
+390,00
|
+1,05%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,96
|
+0,03
|
+0,95%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
165,72
|
+1,24
|
+0,75%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
171,51
|
+1,46
|
+0,86%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
483,50
|
+8,00
|
+1,68%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
51.440,00
|
+480,00
|
+0,94%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.796,80
|
+5,60
|
+0,31%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.104,00
|
-56,00
|
-0,91%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
26,41
|
+0,18
|
+0,67%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
89,50
|
-0,50
|
-0,56%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.100,86
|
-0,59
|
-0,05%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.294,80
|
+3,76
|
+0,16%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
356,15
|
+0,85
|
+0,24%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.823,00
|
-19,50
|
-0,25%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.993,50
|
+20,00
|
+1,01%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.627,00
|
+12,00
|
+0,46%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
22.825,00
|
-115,00
|
-0,50%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
548,00
|
-2,00
|
-0,36%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
634,75
|
-2,75
|
-0,43%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
349,75
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,03
|
-0,06
|
-0,50%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.370,75
|
-1,75
|
-0,13%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
432,90
|
-0,20
|
-0,05%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
44,76
|
-0,18
|
-0,40%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
564,80
|
+3,70
|
+0,66%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.450,00
|
-4,00
|
-0,16%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
124,05
|
+0,10
|
+0,08%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,05
|
+0,01
|
+0,06%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
109,80
|
+1,50
|
+1,38%
|
Bông
|
US cent/lb
|
84,28
|
+3,29
|
+4,06%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
883,60
|
-0,40
|
-0,05%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
162,50
|
+1,20
|
+0,74%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,75
|
0,00
|
0,00%
|