Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên vừa qua không thay đổi nhiều giữa bối cảnh nhà đầu tư đứng giữa 2 luồng thông tin tác động trái chiều: tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng vọt và lạc quan về việc vắc xin COVID-19 sẽ đươc tung ra nhanh chóng, kéo nhu cầu dầu hồi phục.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent tăng nhẹ 2 US cent lên 48,86 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 8 US cent (0,2%) xuống 45,52 USD/thùng.
Lúc đầu phiên, giá giảm 1% sau khi dữ liệu cho thấy tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng, trái ngược hoàn toàn với dự báo của các nhà phân tích khi Reuters thăm dò là giảm 1,4 triệu thùng.
Theo báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của nước này trong tuần kết thúc ngày 4/12 tăng 15,2 triệu thùng. Trong khi đó, các nhà phân tích tham gia khảo sát của S&P Global Platts dự báo giảm 700.000 thùng. Trong dự báo hàng tháng đưa ra ngày 8/12, EIA nhận định sản lượng dầu của Mỹ sẽ giảm từ mức 11,2 triệu thùng/ngày trong tháng 11 xuống dưới 11 triệu thùng/ngày vào tháng 3/2021. Nhập khẩu ròng dầu thô của Mỹ đã tăng 2,7 triệu thùng/mỗi ngày trong tuần qua, mức tăng lớn nhất trong kỷ lục, do xuất khẩu sụt giảm.
Tuy nhiên, việc Anh đã tiên phong trong việc tiêm vắc xin thử nghiệm và Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ đang phê duyệt vắc xin COVID-19 ở Mỹ đã kéo giá dầu hồi phục trở lại nhanh chóng.
Đối với mặt hàng than đá, giá than luyện cốc trên thị trường Trung Quốc tăng lên mức cao kỷ lục do nguồn cung khan hiếm vì nhập khẩu giảm và các cơ quan chức năng tăng cường điều tra về mức độ an toàn của các mỏ than.
Giá than luyện cốc trên sàn Đại Liên, kỳ hạn tháng 1, tăng 5,6% lên 1.609 CNY/tấn, than cốc tăng 1,9% lên 3.610 CNY/tấn.
Dữ liệu của Hải quan Trung Quốc cho biết, nhập khẩu than của nước này trong tháng 11 là 11,67 triệu tấn, giảm 15% so với tháng 10 và giảm 44% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giữa bối cảnh nhiều tiến triển về vắc-xin ngừa COVID-19 đã củng cố hy vọng về đà phục hồi kinh tế suôn sẻ hơn. Canada đã thông qua vắc-xin ngừa COVID-19 do Pfizer và BioNTech phát triển, một ngày sau khi Anh trở thành quốc gia phương Tây đầu tiên bắt đầu đợt tiêm đại trà.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 2,4% xuống 1.827,26 USD/ounce. Phiên liền trước, giá hợp đồng này đã đạt mức cao nhất kể từ 23/11 là 1.875,07 USD/ounce. Hợp đồng vàng kỳ hạn tháng 2/2021 giảm 1,9% xuống 1.838,5 USD/ounce.
Jeffrey Sica, người sáng lập Circle Squared Alternative Investments, dự đoán: “Một số bất ổn do đại dịch gây ra sẽ lắng xuống và nhiều nước trên thế giới đang bắt đầu triển khai tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 trên diện rộng”.
Giá vàng cũng chịu sức ép trước sự tăng giá của đồng USD. Tuy nhiên, kim loại quý này, vốn được coi là tài sản an toàn trong thời kỳ lạm phát, vẫn tăng hơn 20% trong năm nay, nhờ hy vọng về các biện pháp kích thích tài chính.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát trở lại, vượt mức đã ghi nhận được hồi mới bùng phát dịch, các nhà lập pháp Mỹ đã nỗ lực đưa ra một thỏa thuận về một gói hỗ trợ tài chính mới.
Giới đầu tư hiện đang chờ đợi thêm manh mối từ cuộc họp chính sách hai ngày của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) diễn ra trong tuần tới. Nhà phân tích thị trường cấp cao Jeffrey Halley thuộc OANDA nhận định mọi quan điểm ôn hoà từ Fed sẽ "kích thích đà tăng của vàng"
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 3,8% xuống 23,64 USD/ounce, bạch kim giao ngay giảm 2,9% xuống 993,23 USD/ounce, trong khi palađi giảm 1,3% xuống 2.280,92 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng loạt tăng trong phiên vừa qua do lạc quan về triển vọng vắc xin Covid-19 sẽ thúc đẩy kinh tế thế giới hồi phục, kéo nhu cầu kim loại tăng theo.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,7% lên 6.749 USD/tấn, gần chạm mứ cao kỷ lục kể từ tháng 3/2013 là 7.800 USD/tấn của ngày 7/12.
Giá đồng gần đây liên tục tăng bởi kinh tế thế giới hồi phục nhanh. Lượng đồng lưu kho trên sàn London đã giảm 20% kể từ giữa tháng 10 đến nay, hiện xuống chỉ 149.575 tấn.
Các kim loại cơ bản khác cũng tăng theo giá đồng, theo đó nhôm tăng 2,4% lên 2.037,50 USD/tấn, kẽm thêm 2,3% len 2,863 USD, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ tháng 4/2019, nickel tăng 2% lên 16.730 USD/tấn, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ tháng 10/2019, chì vững ở mức 2.100 USD/tấn, trong khi thiếc tăng 1,4% lên 19.450 USD/tấn, sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất kể từ tháng 5/2019.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng 4% trong phiên vừa sau khi có tin Indonesia chuẩn bị công bố chương trình nhập khẩu đường.
Kết thúc phiên, hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng 3 đạt 14,97 US cent/lb, hồi phục đáng kể từ mức thấp nhất 1 tháng ở phiên 7/12. Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng tăng 3,15% lên 409,2 USD/tấn.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 3/2031 giảm 2,2 US cent, tương đương 1,8%, xuống 1,1705 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn giảm 11 USD (0,8%) xuống 1.334 USD /tấn.
Xuất khẩu cà phê xanh của Brazil đã tăng 36% trong tháng 11 so với một năm trước đó lên 4,025 triệu bao 60 kg, hiệp hội các nhà xuất khẩu Brazil Cecafe cho biết.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần do lo ngại về số ca nhiễm virus Covid-19 gia tăng, mặc dù có những thông tin lạc quan về vắc xin phòng ngừa.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 5/2021 giảm 7,2 JPY, tương đương 3%, xuống 234,2 JPY/kg, thấp nhất kể từ 20/11. Trên sàn Thượng Hải, hợp đồng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 4,1% xuống 14.260 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 10/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,81

+0,29

+0,64%

Dầu Brent

USD/thùng

49,08

+0,22

+0,45%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

31.400,00

+200,00

+0,64%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,43

-0,01

-0,41%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

128,70

+1,11

+0,87%

Dầu đốt

US cent/gallon

140,58

+0,69

+0,49%

Dầu khí

USD/tấn

398,50

-3,50

-0,87%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

46.550,00

+70,00

+0,15%

Vàng New York

USD/ounce

1.841,20

+2,70

+0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.174,00

-66,00

-1,06%

Bạc New York

USD/ounce

24,07

+0,08

+0,33%

Bạc TOCOM

JPY/g

80,40

-1,30

-1,59%

Bạch kim

USD/ounce

1.005,42

+1,67

+0,17%

Palađi

USD/ounce

2.279,64

+6,68

+0,29%

Đồng New York

US cent/lb

348,95

-2,40

-0,68%

Đồng LME

USD/tấn

7.723,00

+24,00

+0,31%

Nhôm LME

USD/tấn

2.035,00

+45,00

+2,26%

Kẽm LME

USD/tấn

2.855,50

+56,00

+2,00%

Thiếc LME

USD/tấn

19.442,00

+267,00

+1,39%

Ngô

US cent/bushel

424,75

+1,00

+0,24%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

585,25

+2,00

+0,34%

Lúa mạch

US cent/bushel

327,75

+4,25

+1,31%

Gạo thô

USD/cwt

12,38

+0,01

+0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

1.169,00

+5,50

+0,47%

Khô đậu tương

USD/tấn

383,90

+2,50

+0,66%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,70

-0,02

-0,05%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

582,00

-1,20

-0,21%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.549,00

-26,00

-1,01%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

117,05

-2,20

-1,84%

Đường thô

US cent/lb

14,97

+0,58

+4,03%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

125,65

-0,45

-0,36%

Bông

US cent/lb

73,05

+1,07

+1,49%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

754,50

+29,30

+4,04%

Cao su TOCOM

JPY/kg

155,20

-1,20

-0,77%

Ethanol CME

USD/gallon

1,38

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg