Giá dầu tăng gần 20%
Phiên cuối cùng của tháng 2/2021, gí dầu giảm do USD mạnh lên và lo ngại OPEC+ sẽ quyết định nâng sản lượng dầu trong kỳ họp sắp tới.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 4/2021 giảm 2,03 USD, hay 3,2%, chốt phiên ở mức 61,5 USD/thùng tại Sàn giao dịch hàng hóa New York, giảm khỏi mức cao nhất kể từ ngày 1/5/2019 ở phiên liền trước. Dầu Brent giao cùng kỳ hạn cũng giảm 75 US cent (1,1%) xuống 66,13 USD/thùng; kỳ hạn giao tháng 5/2021 giảm 1,69 USD, hay 2,6%, xuống 64,42 USD/thùng.
Mặc dù vậy, tính chung trong tháng 2, giá cả 2 loại dầu vẫn tăng khoảng 18%. Tính từ đầu năm đến nay, giá dầu đã tăng khoảng 30%.
Thị trường dầu đang chịu tác động từ các thông tin trái chiều như tình trạng gián đoạn nguồn cung tại Mỹ và triển vọng tích cực từ các đợt tiêm vắc xin Covid-19.
Hiện tại các cơ sở sản xuất năng lượng với năng lực cung cấp 4 triệu thùng dầu/ngày vẫn đóng cửa. Nhiều khả năng sẽ phải chờ đến ngày 5/3/2021 để năng lực sản xuất có thể được khôi phục trở lại.
Nhà đầu tư trên thị trường năng lượng đang kỳ vọng nhiều hơn vào cuộc họp của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh hay còn gọi là OPEC+ sẽ đồng nghĩa với việc có thêm nguồn cung vào thị trường xét đến việc giá dầu tăng trong thời gian gần đây và kỳ vọng vào khả năng nhu cầu sẽ phục hồi bởi các biện pháp phong tỏa được nới lỏng.
Các bộ trưởng OPEC dự kiến họp trong hai ngày 3-4/3 để thảo luận về việc cắt giảm sản lượng. Việc các nước tuân thủ các hạn chế sản lượng hiện nay cùng với quyết định cắt giảm tự nguyện 1 triệu thùng/ngày của Saudi Arabia trong tháng Hai và tháng Ba đã góp phần đáng kể vào sự phục hồi của giá dầu.
Người phụ trách nghiên cứu đầu tư BDSwiss Group, Marshall Gittler, cho rằng OPEC phải có hai quyết định. Một là có phục hồi sản lượng 500.000 thùng/ngày trong tháng Tư hay không và hai là về việc Saudi Arabia thực hiện cam kết cắt giảm tự nguyện.
Đà tăng của giá dầu có thể đưa đến những kêu gọi về việc nới lỏng mức cắt giảm sản lượng, một phần do những lo ngại các nhà sản xuất dầu đá phiến của Mỹ và các nhà sản xuất khác có thể tăng sản lượng khi giá tăng và giành thị phần từ các thành viên OPEC+.
Kim loại quý: Giá vàng giảm mạnh nhất trong hơn 4 năm
Giá vàng thế giới phiên 26/2 giảm phiên thứ tư liên tiếp, khép lại tháng Hai với mức giảm mạnh nhất trong hơn 4 năm, khi lợi suất trái phiếu Mỹ tăng mạnh đã làm giảm nhu cầu với kim loại quý này.
Trong phiên này, giá vàng giao ngay giảm 2,5% xuống 1,726,31 USD/ounce, sau khi có lúc chạm 1.716,85 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2020. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 đóng cửa giảm 2,6% xuống 1728,8 USD/ounce. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giữ gần mức cao nhất trong hơn 1 năm, trong khi chỉ số USD tăng.
Như vậy, giá vàng giảm 2,7% trong tuần qua và giảm 6,4% trong tháng Hai, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 11/2016.
Nhà phân tích thị trường Fawad Razaqzada tại ThinkMarkets cho rằng lợi suất trái phiếu tăng là trở ngại chính đối với giá vàng, khi điều này làm tăng chi phí cơ hội cho việc nắm giữ vàng.
Ông cho rằng giá vàng cũng chịu sức ép do giao dịch theo kỳ vọng lạm phát gần đây, khi các nhà đầu tư chọn các tài sản có thể có triển vọng tốt hơn khi tình hình kinh tế cải thiện như đồng và dầu thô.
Nhà sáng lập và Giám đốc điều hành Noble Gold, Collin Plume, nói giá vàng luôn giảm khi đồng USD hay lãi suất tăng.
Ông Razaqzada cho rằng triển vọng giá vàng có phần ảm đạm nhưng nếu lợi suất trái phiếu dừng tăng, giá kim loại này có thể phục hồi. Ông nói nếu số liệu kinh tế sắp tới không cho thấy một sự phục hồi kinh tế rất mạnh, lợi suất có thể giảm và điều này sẽ hỗ trợ giá vàng.
Việc tiêm chủng vaccine và hy vọng phục hồi sau đại dịch trong nửa sau năm 2021 là một trong những yếu tố chính đứng sau triển vọng cải thiện của nền kinh tế và là lý do để bán ra trái phiếu.
Kim loại công nghiệp: Giá tăng mạnh
Phiên cuối tháng, giá đồng giảm khỏi mức cao nhất nhiều năm (giảm 3%) do tâm lý lo ngại rủi ro trên các thị trường tài chính sau khi lợi suất trái phiêu tăng vọt.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 3,8% xuống 9.056 USD/tấn. Trước đó giá đã đạt đỉnh nhiều năm trong 6 phiên liên tiếp. Mặc dù vậy, tính chung cả tháng 2, giá đồng vẫn tăng khoảng 13%, nâng tổng mức tăng trong 2 tháng đầu năm nay lên khoảng 15%.
Hợp đồng đồng giao tháng 4 trên sàn giao dịch Thượng Hải đóng cửa phiên 26/2 giảm 2,1% xuống 67.950 CNY (10.507,68 USD)/tấn nhưng đánh dấu tháng tốt nhất kể từ tháng 11/2016.
Các kim loại khác như nhôm và nickel cũng giảm giá trong phiên cuối tuần khi cổ phiếu Châu Á giảm giá mạnh nhất trong 9 tháng trong bối cảnh nhốn nháo trên thị trường trái phiếu toàn cầu khiến lợi tức tăng vọt.
Công ty Codelco của Chile, nhà sản xuất đồng hàng đầu thế giới cho biết họ tăng 2% sản lượng từ các mỏ của mình lên 1.618 triệu tấn bất chấp sự bùng phát của virus corona.
Giá quặng sắt Trung Quốc cũng tăng liên tiếp trong cả 4 tuàn của tháng 2 do nhu cầu từ các nhà sản xuất thép thanh và thép cuộn cán nóng đều tăng. Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 1,7% lên 1,151 CNY (177,87 USD)/tấn. Giá tăng 3% trong tuần quavà đánh dấu tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2020. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62þ xuất sang Trung Quốc tăng 1 USD lên 174,5 USD/tấn trong ngày 25/2.
Công suất hoạt động của 247 lò cao tại Trung Quốc tăng lên 92,28% trong tuần qua, cao nhất kể từ giữa tháng 12/2020, bất chấp những hạn chế môi trường tại tỉnh Hà Bắc.
Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 0,1% trong phiên cuối tháng lên 4.677 CNY/tấn và thép cuộn cán nóng tăng 0,3% lên 4.887 CNY/tấn. Cả hai hợp đồng này kết thúc tháng tăng lần lượt 9,6% và 11,3%.
Theo một thăm dò của Reuters hoạt động sản xuất của Trung Quốc có thể tăng ở tốc độ thấp hơn trong tháng 2 do các nhà máy đóng cửa nghỉ Tết Nguyên đán, mặc dù tăng trưởng dự kiến vẫn mạnh, thúc đẩy bởi việc sớm khôi phục sản xuất.
Nông sản: Giá tiếp tục tăng
Phiên 26/2, giá lúa mì tại sàn giao dịch Chicago giảm 2,8%, giảm ngày thứ 2 liên tiếp, do chốt lời bởi thời tiết ấm lên ở Mỹ làm giảm nguy cơ thiệt hại với cây trồng. Ngô và đậu tương cũng giảm. Các thương nhân cho biết thiếu hoạt động xuất khẩu trong tuần này, thậm chí các khách hàng Trung Quốc trở lại thị trường sau Tết Nguyên đán, được xem như dấu hiệu giảm giá.
Đậu tương CBOT giao tháng 5 chốt phiên giảm 3-1/4 US cent xuống 14,04-14 USD/bushel. Đậu tương kết thúc tháng 2 là tháng tăng thứ 9 liên tiếp, do tồn kho của Mỹ đang giảm và vụ thu hoạch của Brazil vị chậm lại. Lúa mỳ cùng kỳ hạn giảm 15-1/2 US cent xuống 6,60-1/4 USD/bushel và ngô giảm 1-1/4 US cent xuống 5,47-1/2 USD/bushel.
Mặc dù vậy, tính chung cả tuần, giá cả 3 mặt hàng này đều tăng, theo đó đậu tương tăng 1,5% trong tuần và đã đạt mức cao nhất trong 6,5 năm vào ngày 25/2, ngô tăng 0,7% và lúa mỳ tăng 1,7%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 2,3% xuống 16,45 US cent/lb trong phiên 26/2, tiếp tục giảm từ mức đỉnh gần 4 năm tại 17,52 US cent thiết lập hôm 23/2; đường trắng kỳ hạn tháng 5 phiên này giảm 9 USD hay 1,9% xuống 459 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 chốt phiên cuối tháng giảm 1,55 US cent hay 1,8% xuống 1,375 USD/lb sau khi đạt đỉnh 1,4045 USD trong ngày 25/2, mức cao nhất kể từ tháng 12/2019. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 3 USD hay 0,2% xuống 1.473 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các nhà sản xuất đã tăng cường bán ra sau khi giá tăng, với đồng nội tệ của Brazil suy yếu làm giá càng hấp dẫn với nông dân và nhà xuất khẩu.
Mưa trên diện rộng ở vành đai cà phê arabica Brazil cũng tạo ra xu hướng giảm giá, mặc dù trước đó thời tiết khô hạn sẽ ảnh hưởng tới vụ mùa sắp tới.
Giá cao su Nhật Bản giảm trong ngày 26/2 từ mức cao nhất trong 4 năm đã đạt được trong phiên trước, do sự sụt giảm của cổ phiếu toàn cầu và thị trường cao su Thượng Hải.
Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 14,1 JPY hay 4,9% xuống 275,9 JPY (2,6 USD)/kg. Nhưng giá vẫn tăng 4% trong tuần này và tăng 17% trong tháng 2.
Cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải cũng giảm 945 CNY xuống 15.990 CNY (2.475 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 30/1/21

Giá 26/2/21

Giá 26/2 so với 25/2

Giá 26/2 so với 25/2 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,03

61,50

-2,03

-3,20%

Dầu Brent

USD/thùng

54,96

64,42

-1,69

-2,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

34.840,00

40.670,00

-500,00

-1,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,72

2,77

-0,01

-0,22%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

155,70

195,05

-2,59

-1,31%

Dầu đốt

US cent/gallon

160,12

184,31

-5,48

-2,89%

Dầu khí

USD/tấn

448,75

532,00

-10,25

-1,89%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

48.710,00

54.600,00

+54.600,00

--

Vàng New York

USD/ounce

1.854,70

1.728,80

-46,60

-2,62%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.238,00

5.942,00

-80,00

-1,33%

Bạc New York

USD/ounce

28,39

26,44

-1,25

-4,50%

Bạc TOCOM

JPY/g

95,60

92,10

-1,70

-1,81%

Bạch kim

USD/ounce

1.092,42

1.193,03

-26,32

-2,16%

Palađi

USD/ounce

2.237,24

2.327,26

-81,87

-3,40%

Đồng New York

US cent/lb

354,95

409,25

-17,10

-4,01%

Đồng LME

USD/tấn

7.856,00

9.077,00

-335,50

-3,56%

Nhôm LME

USD/tấn

1.977,50

2.154,50

-80,50

-3,60%

Kẽm LME

USD/tấn

2.579,50

2.792,50

-97,50

-3,37%

Thiếc LME

USD/tấn

22.779,00

25.664,00

-1.176,00

-4,38%

Ngô

US cent/bushel

553,50

547,50

-2,25

-0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

667,75

660,25

-15,50

-2,29%

Lúa mạch

US cent/bushel

349,75

364,75

+3,25

+0,90%

Gạo thô

USD/cwt

13,41

13,05

-0,06

-0,46%

Đậu tương

US cent/bushel

1.375,50

1.404,25

-3,25

-0,23%

Khô đậu tương

USD/tấn

432,70

421,40

-1,60

-0,38%

Dầu đậu tương

US cent/lb

553,50

49,94

+0,27

+0,54%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

667,75

595,50

-2,70

-0,45%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.531,00

2.604,00

-4,00

-0,15%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,95

137,50

-2,55

-1,82%

Đường thô

US cent/lb

15,83

16,45

-0,39

-2,32%

Nước cam

US cent/lb

110,60

111,75

-0,45

-0,40%

Bông

US cent/lb

80,64

88,83

-0,86

-0,96%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

887,00

847,70

-30,60

-3,48%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,20

177,90

-10,30

-5,47%

Ethanol CME

USD/gallon

1,75

1,73

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC / Reuters, Thairiceexporters