Năng lượng: giá dầu tăng tuần thứ 6 liên tiếp
Giá dầu tiếp tục đà tăng mạnh vào tháng 11, chủ yếu nhờ tiến triển về vắc-xin, bù lại cho những lo ngại về tác động đến nhu cầu khi số ca mắc mới COVID-19 tại Mỹ và châu Âu tăng mạnh.
Phiên giao dịch cuối tuần 11/12, giá dầu giảm. Theo đó, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2021 giảm 21 US cent, hay gần 0,5%, xuống 46,57 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 2/2021 giảm 28 US cent, hay 0,6%, xuống 49,97 USD/thùng. Giá dầu tiếp đối đà tăng mạnh của tháng 11, chủ yếu nhờ tiến triển về vắc-xin, bù lại cho những lo ngại về tác động đến nhu cầu khi số ca mắc mới COVID-19 tại Mỹ và châu Âu tăng mạnh.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn đi lên, theo đó WTI tăng 0,7%, còn Brent tăng 1,2%. Trong tuần có thời điểm giá vượt ngưỡng 50 USD/thùng lần đầu tiên kể từ tháng Ba.
Các nhà phân tích cho rằng những dấu hiệu về nhu cầu mạnh lên ở châu Á và những nơi khác đã hỗ trợ giá dầu.
Theo các nhà phân tích, thị trường dầu mỏ vừa chịu sức ép từ xu hướng gia tăng số ca nhiễm mới COVID-19 vừa được thúc đẩy từ sự lạc quan về vắc-xin, trong khi các số liệu thống kê về tăng trưởng kinh tế yếu không thu hút nhiều sự quan tâm trước những hy vọng lớn về các biện pháp kích thích.
Người phụ trách hoạt động và nghiên cứu toàn cầu của Schneider Electric, Robbie Fraser, nhận định khi giá dầu tiếp tục nhận được sự hỗ trợ, sản xuất dầu tại Mỹ có thể bắt đầu tăng, với số giàn khoan gia tăng trong những tháng gần đây.
Kim loại quý: Giá vàng tăng
Giá vàng thế giới đi lên trong tuần giao dịch vừa qua, khi các nhà đầu tư mua tích cực vào kim loại quý này trước rủi ro do sự bế tắc về gói kích thích mới tại Mỹ, khả năng Anh ra khỏi Liên minh châu Âu (EU) mà không đạt thỏa thuận thương mại và những dấu hiệu về lạm phát giá hàng hóa tại Mỹ.
Phiên cuối tuần,giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.839,9 USD/ounce, trước đó cùng phiên có lúc giá giảm 0,6%; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,3% lên 1.843,60 USD/ounce.
Số liệu mới nhất về lòng tin tiêu dùng tại Mỹ được công bố. Theo số liệu của Đại học Michigan, chỉ số lòng tin tiêu dùng tại nước này tăng từ 76,9 trong tháng 11 lên 81,4 trong tháng 12.
Về số liệu kinh tế khác của Mỹ, chỉ số giá của nhà sản xuất tăng chỉ 0,1% trong tháng 11, mức tăng thấp nhất trong bảy tháng.
Phó Chủ tịch điều hành GoldMining Inc., Jeff Wright, cho rằng các nhà đầu tư vẫn thận trọng khi số các mắc mới COVID-19 tăng và các yêu cầu đóng cửa kinh doanh được thực hiện quá gần Giáng Sinh.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm
Giá đồng giảm trong phiên cuối tuần, từ mức cao nhất nhiều năm, do hoạt động bán chốt lời giữa bối cảnh lo ngại khi các cuộc đàm phán giữa Anh và EU về thỏa thuận thương mại cho thấy nguy cơ không kết quả, và Mỹ vẫn chậm trễ trong việc đưa ra gói kích thích kinh tế mới.
Thị trường chứng khoán toàn cầu cũng giảm giá do những thông tin này.
Giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,3% xuống 7.776 USD/tấn vào cuối phiên, trước đó có thời điểm đạt 7.973,5 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 2/2013.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer ở Zurich cho biết: "Rất nhiều tin tốt đã tác động đến thị trường. Việc chốt lời sau một đợt tăng mạnh như vậy không có gì đáng ngạc nhiên và hôm nay chúng tôi có bị ảnh hưởng chút ít bởi sự giảm giá trên thị trường chứng khoán”, “Thông thường, nếu bạn có tâm trạng lạc quan quá mức thì đối với thị trường hàng hóa tương lai, việc điều chỉnh 10% giá triij sẽ không có gì bất thường”.
Giá quặng sắt phiên vừa qua đã tăng gần 10% lên vượt 1.000 CNY (152,95 USD)/tấn lần đầu tiên trong lịch sử do lo ngại nguồn cung khan hiếm trong khi nhu cầu thép tại nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang bùng nổ. Phiên 11/12, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2021 – đang được giao dịch nhiều nhất – trên sàn Đại Liên có thời điểm tăng 9,9% lên 1.042 CNY/tấn, lúc đóng cửa vẫn còn tăng 4,4% so với phiên liền trước, và tính chung cả tuần tăng 6,4%, là tuần tăng thứ 5 liên tiếp.
Trong vòng một tháng qua, giá quặng sắt đã tăng 25%, còn so với thời điểm này năm ngoái thì hiện cao hơn 65%.
Nông sản: Thị trường lúa mì nóng lên
Giá lúa mì Mỹ đã tăng mạnh trong phiên vừa qua do lo ngại nguồn cung trên toàn cầu giảm sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hạ triển vọng về lượng tồn trữ ngũ cốc và Nga cân nhắc hạn chế xuất khẩu.
Giá ngô và đậu tương phiên vừa qua cũng đi lên do nguồn cung hạn hẹp kéo dài, nhất là đậu tương, vì lo ngại về triển vọng sản lượng của Nam Mỹ không khả quan do thời tiết khô hạn lúc đầu vụ.
Trên sàn Chicago, lúa mì kỳ hạn tháng 3 năm sau tăng 18 US cent lên 6,14-1/2 USD/bushel, là phiên thứ 3 liên tiếp tăng giá với mức tăng trong 3 phiên này lên tới 7,8%, nhiều nhất kể từ tháng 7. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 7-3/4 US cent lên 11,60-1/2 USD/bushel, trong khi ngô kỳ hạn tháng 3 tăng 2-1/4 US cent lên 4,23-1/2 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá lúa mì tăng mạnh nhất 4 tháng, trong khi ngô tăng tuần thứ 5 trong vòng 6 tuần gần đây, còn đậu tương giảm nhẹ tuần thứ 2 liên tiếp.
Giá đường thô giảm 1,5% trong phiên vừa qua do nhà đầu tư giảm giao dịch vì lo ngại sẽ có rủi ro giữa bối cảnh lại dấy lên thông tin về việc Ấn Độ trợ cấp xuất khẩu đường.
Kết thúc phiên vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1,5% xuống 14,43 US cent/lb, sau khi đã giảm 2% ở phiên liền trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 3 cũng giảm 1,4% xuống 395,8 USD/tấn.
Trên thị trường lại có thông tin Chính phủ Ấn Độ đang tiến gần hơn tới việc công bố trợ cấp xuất khẩu đường – chương trình đã bị trì hoãn từ lâu.
Mặc dù giá đường hiện đang giảm, song ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, giá nông sản này sẽ tăng trong năm tới do USD giảm, lạm phát, La Nina và nhu cầu tăng từ Trung Quốc.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 tăng 0,55 US cent (0,5%) trong phiên 11/12, lên 1,216 USD/lb trong phiên cuối tuần do real Brazil tăng giá. Bang trồng cà phê Minas Gerais của Brazil tiếp tục có mưa thường xuyên hơn sau đợt hạn hán nghiêm trọng hồi tháng 10, song người trồng cà phê cho biết đã quá muộn để cải thiện triển vọng năng suất cho vụ tới.
Giá cà phê robusta giao tháng 3 cũng tăng 6 USD (0,4%) lên 1.357 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm trong phiên vừa qua và tính chung cả tuần cũng giảm tuần đầu tiên trong vòng 3 tuần do dịch Covid-19 lan nhanh và thiếu chắc chắn về gói kích thích kinh tế của Mỹ.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 5 giảm 3,3 JPY (1,4%) xuống 229.9 JPY/kg, tính chung cả tuần giảm 10%. Trên sàn Thượng Hải, hợp đồng giao cùng kỳ hạn tăng 0,9% lên 14.495 CNY/tấn.
Giá hàng hóa quốc tế

ĐVT

Giá 4/12

Giá 11/12

Giá 11/12 so với 10/12

Giá 11/12 so với 10/12(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

46,12

46,57

-0,21

-0,45%

Dầu Brent

USD/thùng

49,14

49,97

-0,28

-0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

31.330,00

31.840,00

0,00

0,00%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,47

2,59

+0,04

+1,49%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

126,34

130,77

-0,89

-0,68%

Dầu đốt

US cent/gallon

139,90

143,69

+0,12

+0,08%

Dầu khí

USD/tấn

399,00

412,00

-6,25

-1,49%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

46.560,00

47.110,00

+60,00

+0,13%

Vàng New York

USD/ounce

1.839,60

1.843,60

+6,20

+0,34%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.154,00

6.158,00

+14,00

+0,23%

Bạc New York

USD/ounce

24,27

24,09

0,00

-0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

80,90

80,20

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

1.048,36

1.012,79

-18,33

-1,78%

Palađi

USD/ounce

2.365,71

2.321,75

-19,46

-0,83%

Đồng New York

US cent/lb

353,55

352,80

-4,80

-1,34%

Đồng LME

USD/tấn

7.760,50

7.772,50

-105,50

-1,34%

Nhôm LME

USD/tấn

2.044,00

2.022,50

-37,50

-1,82%

Kẽm LME

USD/tấn

2.757,00

2.795,00

-72,00

-2,51%

Thiếc LME

USD/tấn

18.955,00

19.425,00

-40,00

-0,21%

Ngô

US cent/bushel

418,25

423,50

+2,25

+0,53%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

574,00

614,50

+18,00

+3,02%

Lúa mạch

US cent/bushel

304,50

338,00

+5,75

+1,73%

Gạo thô

USD/cwt

12,22

12,47

+0,07

+0,56%

Đậu tương

US cent/bushel

1.155,25

1.166,00

+7,25

+0,63%

Khô đậu tương

USD/tấn

383,40

381,40

+2,00

+0,53%

Dầu đậu tương

US cent/lb

38,07

38,06

+0,13

+0,34%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

591,80

585,90

+4,30

+0,74%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.654,00

2.622,00

+55,00

+2,14%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

117,55

121,60

+0,55

+0,45%

Đường thô

US cent/lb

14,44

14,43

-0,23

-1,57%

Nước cam

US cent/lb

123,95

116,05

-4,85

-4,01%

Bông

US cent/lb

71,81

74,08

-0,18

-0,24%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

678,60

795,00

+8,50

+1,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,80

155,90

+2,90

+1,90%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

1,38

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg