Năng lượng: Giá dầu giảm, khí gas tăng cao
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu giảm do dự báo sản lượng dầu thô của Libya tăng mạnh và lo ngại nhu cầu bởi số ca nhiễm virus ở Mỹ và Châu Âu không ngừng gia tăng.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 79 US cent hay 1,9% xuống 39,85 USD/thùng; dầu Brent giảm 69 US cent hay 1,6% xuống 41,77 USD/thùng. Tính chung cả tuần dầu thô WIT giảm 2,5% và Brent mất 2,7%.
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Libya (NOC) cho biết họ đã dỡ bỏ tình trạng bất khả kháng đối với với xuất khẩu từ các cảng chủ chốt và sản lượng sẽ đạt 1 triệu thùng/ngày trong vòng 4 tuần tới.
Theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, các công ty năng lượng của Mỹ đã bổ sung 5 giàn khoan dầu, đạt tổng cộng 287 giàn trong tuần tính tới ngày 23/10, mức cao nhất kể từ tháng 5.
Trong khi đó, Italy và một số bang của Mỹ đã báo cáo số ca nhiễm virus tăng kỷ lục một ngày, trong khi Pháp tiếp tục giới nghiêm khoảng 2/3 dân số do làn sóng nhiễm Covid-19 thứ hai càn quét khắp Châu Âu.
Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết Moscow đã không loại trừ việc gia hạn cắt giảm sản lượng dầu của OPEC+, nhưng sự đảm bảo đó không bù được cho kỳ vọng về sản lượng của Libya đang tăng và lo lắng về nhu cầu. OPEC+ dự định tăng sản lượng 2 triệu thùng/ngày so với hiện nay trong tháng 1/2021.
Trái với dầu mỏ, giá khí gas đang có xu hướng tăng. Tuần này, khí tự nhiên hóa lỏng giao ngay (LNG) tới Châu Á tăng lên mức cao nhất trong hơn 20 tháng do nhu cầu mua mạnh trước khi mùa Đông đến – với nhiệt độ dự báo sẽ lạnh hơn các năm trước.
Giá LNG trung bình giao tháng 12 tới đông bắc Á ước tính ở mức 6,9 USD/mmBtu, tăng 1,1 USD so với tuần trước. Giá được hỗ trợ bởi một số nhu cầu từ các khách hàng ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 2 liên tiếp
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giảm phiên thứ 2 liên tiếp do giới đầu tư giảm hy vọng vào gói kích thích kinh tế Mỹ, sau khi IHS Markit công bố chỉ số quản lý mua hàng (PMI) trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất của Mỹ tăng trong tháng 10/2020.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,1%, xuống 1.903,07 USD/ounce; vàng giao sau vững ở mức 1.905,2 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng giảm khoảng 0,1%.
Cũng phiên cuối tuần, giá bạc giao tháng 12/2020 hạ 0,8 % xuống 24,55 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2021 tăng 2% lên 904,36 USD/ounce; trong khi palađi tăng 0,6%, lên 2.389,07 USD/ounce.
Tiến trình của các cuộc đàm phán gói viện trợ kinh tế mới liên quan tới dịch COVID-19 ở Quốc hội Mỹ vẫn không chắc chắn và những chi tiết về quy mô và phạm vi của gói viện trợ bổ sung cũng chưa rõ ràng.
Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi vào ngày 22/10 cho biết các cuộc đàm phán với Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin đã “gần xong”, nhưng Đảng Cộng hòa ở Thượng viện cho đến nay vẫn không sẵn lòng ủng hộ kế hoạch chi tiêu khoảng 2.000 tỷ USD. Lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện Mitch McConnell đã từ chối cam kết bỏ phiếu về gói cứu trợ trước ngày bầu cử Tổng thống. Cố vấn kinh tế Nhà Trắng Larry Kudlow cho biết các cuộc đàm phán sáng ngày 23/10 về gói kích thích tài khóa hầu như không tiến triển.
Ông David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại tại công ty tư vấn High Ridge Futures, cho biết thị trường vàng đang ở chế độ “chờ đợi" diễn biến tiếp theo của cuộc đàm phán về gói kích thích kinh tế mới của Mỹ. Theo chuyên gia này, có vẻ như đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ vẫn còn chưa "tìm được tiếng nói chung" về một số vấn đề. Tuy nhiên, thị trường vẫn nuôi hy vọng rằng cuối cùng vẫn có một gói kích kích thích nào đó được thực hiện.
Robin Bhar, một nhà phân tích độc lập, nhận định giá vàng có khả năng đi ngang cho đến khi có kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ. Trong khi đó, ngân hàng Goldman Sachs gần đây dự báo giá vàng sẽ tăng lên mức 2.300 USD/ounce trong 12 tháng tới, khi chính sách tài khóa và tiền tệ ở các nước phát triển tiếp tục đẩy lãi suất xuống thấp và thúc đẩy nhu cầu phòng ngừa lạm phát.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm
Phiên cuối tuần, giá đồng giảm do một số nhà đầu tư nghi ngờ giá gần đây đã tăng quá mức trong khi các yếu tố cơ bản (cung – cầu) không lạc quan đến thế.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,7% xuống 6.874 USD/tấn, tính chung cả tuần tăng 2%. Mặc dù vậy, giá hiện vẫn cao hơn 50% so với hồi cuối tháng 3.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc phiên cuối tuần giảm và kết thúc một tuần giảm thứ 2 liên tiếp do tồn kho ở cảng ngày càng tăng.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 3,1% xuống 772 CNY (115,68 USD)/tấn; tính chung cả tuần giá giảm 1,8%. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc đứng ở mức 120,5 USD/tấn trong ngày 22/10, không đổi so với phiên liền trước. Tồn kho quặng sắt tại các cảng ở Trung Quốc tăng 2,7% trong tuần này so với tuần trước, lên 127,8 triệu tấn, đánh dầu mức cao nhất trong 8 tháng (theo công ty tư vấn SteelHome).
Giá thép thanh trên sàn Thượng Hải giảm 1% xuống 3.616 CNY/tấn, hợp đồng này giảm 0,4% trong tuần. Thép cuộn cán nóng giảm 0,7% xuống 3.785 CNY/tấn nhưng tăng 2,6% trong cả tuần. Thép không gỉ kỳ hạn tháng 12 giảm 0,6% xuống 14.535 CNY/tấn.
Nông sản: Giá nhìn chung tăng
Trong phiên cuối tuần, giá lúa mì tăng mạnh nhất trong nhóm ngũ cốc, lên trên mức cao nhất trong 6 năm do lo ngại về hạn hán ở vùng trồng chính, cùng với một loạt các cuộc đấu thầu ở nước ngoài cho thấy nhu cầu toàn cầu mạnh mẽ. Giá đậu tương phục hồi lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2016 trong khi ngô đạt mức cao nhất trong 14,5 tháng.
Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch, giá lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 12 trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) đóng cửa tăng 10 US cent lên 6,32-3/4 USD/bushel; giá ngô giao tháng 12 tăng 3 US cent lên 4,19-1/4 USD/bushel; gía đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11 tăng 10 US cent lên 10,83-3/4 USD/bushel.
Chính quyền Trung Quốc dự kiến công bố thêm hạn ngạch nhập khẩu và mua hàng triệu tấn ngô bổ sung trong năm niên vụ mới.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 lúc đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần giảm 0,06 US cent hay 0,4% xuống 14,72 US cent/lb sau khi chạm mức cao nhất 8 tháng là 14,94 US cent trong phiên trước đó. Giá đường đã tăng 1,7% trong tuần này - tuần tăng thứ 6 liên tiếp; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 3,4 USD hay 0,9% xuống 395,6 USD/tấn.
Trung Quốc nước tiêu thụ đường hàng đầu thế giới đã nhập khẩu 540.000 tấn đường trong tháng 9, tăng 29,1% so với tháng 9/2019. Các nhà kinh doanh đường cho biết việc trì hoãn chính sách trợ cấp xuất khẩu mặt hàng này của Ấn Độ sẽ khiến thị trường lo lắng và không thể đoán trước nhưng xu hướng tăng giá có thể lên tới trên 15 US cent ít nhất trong một thời gian ngắn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 chốt phiên cuối tuần giảm 1,1 US cent hay 1% xuống 1,056 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2021 giảm 2 USD hay 0,2% xuống 1.305 USD/tấn.
Lo lắng về thời tiết khô hạn tại vành đai trồng cà phê chính của Brazil đã lùi xa, mặc dù nhà dự báo Maxar cho biết tình trạng thời tiết khô hơn có thể thấy ở một số khu vực cà phê phía nam trong 5 ngày tới.
Giá cao su Nhật Bản tăng trong tất cả các phiên của tuần này, đánh dấu tuần tăng mạnh nhất trong hơn 7 năm do ngày càng lạc quan về sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 12,3 JPY hay 5,6% lên 232,1 JPY (2,22 USD)/kg, trong phiên có lúc giá đạt 233,9 JPY cao nhất kể từ ngày 7/9/2017. Giá đã tăng 15,7% trong cả tuần này, đánh dấu tuần thứ 3 tăng liên tiếp và là tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 5/2013.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 30 CNY lên 14.840 CNY (2.225 USD)/tấn, có tuần thứ 3 tăng liên tiếp.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 16/10

Giá 23/10

23/10 so với 22/10

23/10 so với 22/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,88

39,85

-0,79

-1,94%

Dầu Brent

USD/thùng

42,93

41,77

-0,69

-1,63%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.410,00

27.730,00

-240,00

-0,86%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,77

2,97

-0,04

-1,20%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

116,88

113,89

-1,92

-1,66%

Dầu đốt

US cent/gallon

117,91

115,13

-0,94

-0,81%

Dầu khí

USD/tấn

344,75

335,00

-1,25

-0,37%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.190,00

43.500,00

+520,00

+1,21%

Vàng New York

USD/ounce

1.906,40

1.905,20

+0,60

+0,03%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.443,00

6.419,00

-1,00

-0,02%

Bạc New York

USD/ounce

24,41

24,68

-0,03

-0,14%

Bạc TOCOM

JPY/g

82,10

83,00

-0,30

-0,36%

Bạch kim

USD/ounce

864,85

905,01

+19,01

+2,15%

Palađi

USD/ounce

2.335,20

2.397,76

+11,46

+0,48%

Đồng New York

US cent/lb

306,75

312,90

-2,45

-0,78%

Đồng LME

USD/tấn

6.740,00

6.867,50

-55,00

-0,79%

Nhôm LME

USD/tấn

1.870,50

1.842,50

-4,00

-0,22%

Kẽm LME

USD/tấn

2.436,00

2.558,50

-20,00

-0,78%

Thiếc LME

USD/tấn

18.320,00

18.405,00

-280,00

-1,50%

Ngô

US cent/bushel

402,00

419,25

+3,00

+0,72%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

625,25

632,75

+10,00

+1,61%

Lúa mạch

US cent/bushel

294,50

303,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,38

12,51

+0,04

+0,36%

Đậu tương

US cent/bushel

1.050,25

1.081,00

+8,75

+0,82%

Khô đậu tương

USD/tấn

367,50

386,40

+4,00

+1,05%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,99

34,11

+0,42

+1,25%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

533,90

551,00

+4,10

+0,75%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.361,00

2.479,00

+8,00

+0,32%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

107,25

105,60

-1,10

-1,03%

Đường thô

US cent/lb

14,43

14,72

-0,06

-0,41%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

114,50

113,50

+3,65

+3,32%

Bông

US cent/lb

69,92

71,29

-0,65

-0,90%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

534,00

515,30

-16,10

-3,03%

Cao su TOCOM

JPY/kg

150,90

164,20

+1,90

+1,17%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

1,52

0,00

0,00%

 


Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg