Năng lượng: Giá dầu tăng gần 9% trong tuần

Phiên cuối tuần, giá dầu tăng lên sát 60 USD/thùng, đạt mức cao nhất trong vòng 1 năm, do kỳ vọng kinh tế thế giới hồi phục và thị trường việc làm của Mỹ khởi sắc, giữa bối cảnh nguồn cung của OPEC+ tiếp tục được kiểm soát. Thị trường chứng khoán Mỹ tiếp tục tăng điểm lên mức cao kỷ lục do kỳ vọng vào gói kích thích kinh tế 1,9 nghìn tỷ USD của Mỹ cũng góp phần đẩy giá dầu tăng lên.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent trên sàn London tăng 50 US cent, hay 0,9%, lên 59,34 USD/thùng, trong phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ ngày 20/2/2020 là 59,79 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ mỹ (WTI) tăng 62 US cent, hay 1,1%, lên 56,85 USD/thùng, sau khi có lúc đạt 57,29 USD, cao nhất kể từ ngày 22/1/2020.
Giá dầu tăng trong phiên vừa qua cũng bởi lượng tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm và nhu cầu nhiên liệu tăng trong mùa Đông bởi một trong những trận bão tuyết tồi tệ nhất tấn công vùng Đông Bắc nước Mỹ trong nhiều năm.
Tính chung cả tuần dầu WTI tăng gần 9%, nhiều nhất kể từ tháng 10/2020; dầu thô Brent tăng khoảng 6%, sau 6 phiên tăng liên tiếp - đợt tăng dài nhất kể từ ngày 5/6/2020.
Giới đầu tư kỳ vọng việc triển khai vắc-xin ngừa Covid-19 sẽ thúc đẩy nhu cầu tăng lên, mặc dù còn mất nhiều thời gian nữa, dự kiến sang năm 2022, để nhu cầu hồi phục trở lại mức trước khi xảy ra đại dịch.
Công ty dầu Aramco đã nâng giá bán chính thức dầu Arab Light thêm 1,4 USD/thùng so với tháng trước cho Tây Bắc Châu Âu. Điều này có thể là dấu hiệu cho thấy Saudi Arabia tự tin hơn về triển vọng nhu cầu.
OPEC và các đồng minh duy trì chính sách thắt chặt nguồn cung tại cuộc họp trong ngày 3/2. Các đợt cắt giảm kỷ lục của OPEC+ đã giúp giá dầu tăng từ mức thấp trong lịch sử vào năm ngoái.
Trong khi đó, theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, số giàn khoan dầu của Mỹ đã tăng tháng thứ 5 liên tiếp. Trong tuần trước, Mỹ đã tăng 4 giàn khoan lên 299 giàn, cao nhất kể từ tháng 5/2020.
Nhà phân tích về hàng hóa Eugen Weinberg của Commerzbank, cho rằng bên cạnh các yếu tố có lợi như nhu cầu tăng, thị trường chứng khoán đi lên và sự lạc quan về nền kinh tế, thị trường dầu cũng đang thắt chặt hơn.
Giám đốc phụ trách phân tích và nghiên cứu toàn cầu của Schneider Electric, Robbie Fraser, nhận định giá dầu Brent đang thăm dò ngưỡng 60 USD/thùng và nếu thành công, đây sẽ là lần đầu tiên giá dầu thô vượt mức này kể từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu tác động đáng kể đến giá dầu.
Ông Weinberg cho rằng sự lạc quan về nhu cầu, với các nước sản xuất lớn hy vọng nhu cầu sẽ quay trở lại mức kỷ lục trong năm 2019 ngay vào đầu năm tới, là tham vọng và nhận định giá sẽ điều chỉnh trong những tháng tới.
Trong khi có những trở ngại trong ngắn hạn, sự lạc quan dài hạn vẫn tiếp tục, là yếu tố hỗ trợ sự ổn định của giá dầu.
Kim loại qúy: Giá vàng giảm 2%
Giá vàng thế giới phiên cuối tuần hồi phục lên trên 1.800 USD/ounce - ngưỡng tâm lý - do USD yếu đi và số liệu từ Mỹ cho thấy tăng trưởng việc làm thấp hơn dự kiến - sẽ là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách Mỹ tung ra gói kích thích kinh tế bổ sung.
Cuối phiên này, giá vàng giao ngày tăng 1% lên 1.810,26 USD/ounce, sau khi có thời điểm giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 1/12/2020; vàng kỳ hạn tháng 4/2021 tăng 1,2% lên 1.813 USD/ounce. USD giảm 0,6% khiến vàng rẻ hơn cho người giữ các đồng tiền khác.
Tính chung cả tuần, giá vàng giảm 1,9%, mức giảm mạnh nhất kể từ khi kết thúc tuần vào ngày 8/1, một phần do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng.
Kinh tế Mỹ tạo thêm 49.000 việc làm trong tháng 1/2021 và tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6,7% xuống 6,3%, nhưng mức tăng việc làm thấp cho thấy đà phục hồi chậm của nền kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19.
Số liệu việc làm thấp hơn dự báo có thể làm tăng khả năng kế hoạch kích thích kinh tế thứ hai sẽ được thông qua, điều sẽ làm tăng nợ và làm giảm giá đồng USD, từ đó làm tăng giá vàng được tính theo USD.
Một số nhà kinh tế nhận định khả năng phục hồi kinh tế vừa phải, ít nhất là trong nửa đầu năm 2021, sẽ tạo đà tăng cho giá vàng.
Kim loại công nghiệp: Giá tăng ở phiên cuối tuần
Trong phiên giao dịch cuối tuần, giá đồng tăng bởi đồng USD suy yếu và hy vọng nhu cầu kim loại tốt hơn do việc triển khai vaccine được cải thiện và do các biện pháp kích thích của Mỹ có thể được chấp thuận.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,9% lên 7.970 USD/tấn. Kim loại này được sử dụng trong ngành điện và xây dựng, tăng khoảng 1% trong tuần này.
Dự trữ đồng toàn cầu ở mức thấp nhất kể từ năm 2008 bất chấp kỳ nghỉ Tết Nguyên đán của Trung Quốc đang đến gần, khi tồn trữ thường tăng bởi nhu cầu giảm.
Tồn trữ đồng trên sàn giao dịch LME đạt 76.550 tấn, chưa bằng một nửa mức của tháng 10/2020.
Giá đồng LME giao ngay cao hơn đồng giao sau 3 tháng tới 14,5 USD/tấn, dấu hiệu nguồn cung khan hiếm trong ngắn hạn.
Giá quặng sắt Trung Quốc lên mức cao nhất một tuần bởi dự đoán nhu cầu cải thiện sau dịp nghỉ Tết Nguyên đán. Quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 4,2% lên 1.004,5 CNY (155,16 USD)/tấn, trước đó giá đã đạt 1.017 CNY/tấn, cao nhất một tuần. Tính chung cả tuần giá quặng sắt tăng 1,4% sau khi giảm 3 tuần liên tiếp.
Theo công ty tư vấn số liệu SteelHome, giá quặng sắt giao ngay tăng lên 157 USD/tấn trong ngày 4/2. Trển sàn Singapore, giá quặng sắt giảm 0,4% do những lo ngại về việc kiểm soát Covid-19 của Trung Quốc, mà điều này có thể làm chậm trễ việc trở lại làm việc của công nhân xây dựng sau tết. Giá thép thanh tại Thượng Hải phiên này tăng 1,6%, thép cuộn cán nóng tăng 2% và thép không gỉ tăng 0,2%.
Các thị trường quặng sắt Châu Á có thể trầm lắng trong hai tuần tới, các nhà đầu tư dự kiến sẽ vắng mặt trong kỳ nghỉ tết Trung Quốc kéo dài một tuần bắt đầu từ ngày 11/2.
Nông sản: Giá đường lập kỷ lục cao nhất gần 4 năm
Giá nông sản Mỹ phiên cuối tuần biến động trái chiều, theo đó giá lúa mì đi lên, trong khi giá ngô và đậu tương giảm. Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 3/2021 giảm 1,5 US cent, tương đương 0,27%, xuống 5,485 USD/bushel; đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 5,75 US cent (0,42%), xuống 13,6675 USD/bushel; riêng giá lúa mì giao tháng 3/2021 tăng 3,75 US cent (0,59%), lên 6,4125 USD/bushel.
Tính trung cả tuần hợp đồng đậu tương này giảm 3-1/4 US cent hay 0,2% so với tuần trước.
Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago cho biết, giá ngô kỳ hạn giảm do xu hướng bán ra chốt lời, trong khi giá lúa mì kỳ hạn tăng cao hơn nhờ nguồn tiền mặt ổn định và nhu cầu nguyên liệu thô đối với lúa mì vụ mới ở một số khu vực của Chicago.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) báo cáo rằng, nước này đã bán 101.600 tấn ngô niên vụ 2020-2021, song không tiết lộ cụ thể điểm đến của lô hàng này.
Mỹ đã xuất khẩu lượng đậu tương kỷ lục trong mỗi tháng kể từ tháng 8/2020. Xuất khẩu đậu tương của Mỹ trong tháng 1/2021 cũng ở mức cao kỷ lục mới.
Xu hướng mua nông sản của Trung Quốc tăng khá mạnh kể từ tháng 7/2020 và không có dấu hiệu chậm lại vào đầu năm 2021.
AgResource dự kiến Trung Quốc sẽ mua khoảng 43,5 tỷ USD nông sản của Mỹ vào năm 2021, dựa trên mức giá hiện tại, có thể ước tính tương đương 44 - 47 triệu tấn đậu tương Mỹ và 24 - 28 triệu tấn ngô.
Thống kê của Chính phủ Canada ước tính, dự trữ lúa mì của nước này trong tháng 12/2020 ở mức 24,8 triệu tấn, giảm 100.000 tấn so với cùng kỳ năm 2019.
Dự báo thời tiết cho thấy lượng mưa trên mức trung bình sẽ đổ xuống toàn bộ miền Bắc Brazil vào ngày 5/2 và sẽ kéo dài đến cuối tháng Hai.
Những ngày mưa /nhiều mây sẽ làm chậm việc thu hoạch nông sản trên khắp khu vực Mato Grosso. Trong khi đó, toàn bộ Argentina và hầu hết khu vực phía Nam Brazil lại được dự báo thời tiết khô hạn.
Với mặt hàng đường, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 đóng cửa phiên cuối tuần tăng 9,4 USD hay 2% lên 474,8 USD/tấn, mức cao nhất đối với hợp đồng giao tháng tới kể từ tháng 4/2017. Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,37 US cents hay 2,3% lên 16,42 US cent/lb.
Các đại lý lưu ý có sự quan tâm đáng kể với việc giao nhận đường khi hợp đồng kỳ hạn tháng 3 hết hạn vào thứ sáu tới. Điều này là do thị trường giao ngay khan hiếm kết hợp tới tình trạng thiếu container tại nhiều nước như Ấn Độ.
Về mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 0,45 US cent hay 0,6% lên 1,245 USD/lb; robusta cùng kỳ hạn giảm 3 USD hay 0,2% xuống 1.340 USD/tấn.
Đối với cao su, giá trên thị trường Nhật Bản và Thượng Hải đều tăng sau khi chính quyền Trung Quốc đã báo cáo số ca nhiễm Covid-19 mới ở mức thấp nhất trong hơn một tháng, cho thấy đợt bùng phát virus mới nhất đang dịu đi.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 5,8 JPY hay 2,5% lên 239,5 JPY (2,27 USD)/kg. Giá cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải tăng 295 CNY lên 14.730 CNY (2.276,59 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 30/1/21

Giá 5/2/21

Giá 5/2 so với 4/2

Giá 5/2 so với 4/2 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,03

56,85

+0,62

+1,10%

Dầu Brent

USD/thùng

54,96

59,34

+0,50

+0,85%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

34.840,00

37.710,00

+170,00

+0,45%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,72

2,86

-0,07

-2,45%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

155,70

164,93

+0,45

+0,27%

Dầu đốt

US cent/gallon

160,12

171,37

+1,32

+0,78%

Dầu khí

USD/tấn

448,75

487,50

+12,00

+2,52%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

48.710,00

51.480,00

+200,00

+0,39%

Vàng New York

USD/ounce

1.854,70

1.813,00

+21,80

+1,22%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.238,00

6.153,00

+45,00

+0,74%

Bạc New York

USD/ounce

28,39

27,02

+0,79

+2,99%

Bạc TOCOM

JPY/g

95,60

91,30

+1,30

+1,44%

Bạch kim

USD/ounce

1.092,42

1.128,93

+27,48

+2,49%

Palađi

USD/ounce

2.237,24

2.348,56

+57,52

+2,51%

Đồng New York

US cent/lb

354,95

362,60

+7,30

+2,05%

Đồng LME

USD/tấn

7.856,00

7.823,00

-19,50

-0,25%

Nhôm LME

USD/tấn

1.977,50

1.993,50

+20,00

+1,01%

Kẽm LME

USD/tấn

2.579,50

2.627,00

+12,00

+0,46%

Thiếc LME

USD/tấn

22.779,00

22.825,00

-115,00

-0,50%

Ngô

US cent/bushel

553,50

548,50

-1,50

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

667,75

641,25

+3,75

+0,59%

Lúa mạch

US cent/bushel

349,75

349,25

-0,50

-0,14%

Gạo thô

USD/cwt

13,41

13,00

-0,02

-0,19%

Đậu tương

US cent/bushel

1.375,50

1.366,75

-5,75

-0,42%

Khô đậu tương

USD/tấn

432,70

430,50

-2,60

-0,60%

Dầu đậu tương

US cent/lb

553,50

44,66

-0,28

-0,62%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

667,75

559,30

-1,80

-0,32%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.531,00

2.472,00

+22,00

+0,90%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,95

124,50

+0,45

+0,36%

Đường thô

US cent/lb

15,83

16,42

+0,37

+2,31%

Nước cam

US cent/lb

110,60

111,25

+1,45

+1,32%

Bông

US cent/lb

80,64

82,74

-1,54

-1,83%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

887,00

915,60

+32,00

+3,62%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,20

162,10

+0,80

+0,50%

Ethanol CME

USD/gallon

1,75

1,75

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg