Năng lượng: Giá dầu tăng
Tuần qua, thị trường dầu mỏ thế giới được hưởng lợi khi những thông tin tích cực át đi tâm lý lo ngại về dịch bệnh trong bối cảnh nhà đầu tư kỳ vọng nhu cầu dầu sẽ hồi phục khi các nền kinh tế dần mở cửa trở lại.
Phiên cuối tuần, 7/5, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 7/2021 tăng nhẹ 19 US cent, hay 0,3%, lên 68,28 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 6/2021 cũng tiến thêm 19 US cent Mỹ, hay 0,4%, và đóng phiên ở mức 64,9 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng 2,3%, trong khi dầu WTI tăng 2,1%. Giá dầu Brent đã tăng gần 30% trong năm nay, phục hồi từ mức thấp kỷ lục của năm ngoái nhờ OPEC+ cắt giảm nguồn cung.
Lukman Otunuga, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc công ty FXTM, nhận định rằng việc Mỹ và châu Âu dỡ bỏ các hạn chế đi lại, cùng với sự lạc quan về khả năng phục hồi kinh tế toàn cầu là những lực đẩy giá dầu đi lên.
Mặc dù diễn biến của đại dịch COVID-19 tại một số khu vực cho thấy dịch bệnh có xu hướng giá tăng ở một số nơi, song giá dầu mỏ vẫn đi lên do lượng người tiêm chủng vaccine ngừa COVID-19 tại các thị trường phát triển tăng cao.
Thông tin từ công ty FGE cho biết: “Nhu cầu xăng dầu ở Mỹ và các khu vực của châu Âu đang hồi phục tương đối tốt”, và “Nhìn xa hơn nữa, chúng ta có thể thấy nhu cầu sẽ tăng lên khi những chính sách phong tỏa chống Covid-19 được nới lỏng và nhu cầu bị dồn nén được giải phóng trong mùa lái xe - mùa Hè."
Các nhà phân tích của Citi cho biết: “Việc triển khai vắc xin tiếp tục diễn ra và nhu cầu trong mùa Hè sẽ bùng nổ sau nhiều tháng bị dồn nén, sẽ giữ cho giá dầu tiếp tục tăng”.
Tồn kho dầu thô của Mỹ tuần qua giảm nhiều hơn so với dự kiến khi sản lượng lọc dầu và xuất khẩu dầu tăng mạnh. Theo Cơ quan thông tin Năng lượng Mỹ, tồn trữ dầu thô của nước này tuần qua giảm 8 triệu thùng, cao gấp gần 4 lần mức dự báo là giảm 2,3 triệu thùng qua kết quả thăm dò của Reuters.
Tại Trung Quốc, dữ liệu cho thấy tăng trưởng xuất khẩu tháng 4 tăng đột biến, và kết quả khảo sát ở lĩnh vực tư nhân cho thấy hoạt động của lĩnh vực dịch vụ cũng mở rộng mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhập khẩu dầu thô vào thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới này tháng 4 đã giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước, xuống 40,36 triệu tấn, tương đương 9,82 triệu thùng/ngày, là mức thấp nhất kể từ tháng 12/2020.
Chỉ số dollar index giảm hơn 1% trong tuần qua cũng góp phần vào xu hướng tích cực của giá dầu.
Tuy nhiên, giới đầu tư vẫn tỏ ra cảnh giác trước tỷ lệ lây nhiễm dịch COVID-19 kỷ lục tại Ấn Độ, nước nhập khẩu nhiên liệu lớn thứ ba thế giới. Do đó, giá dầu dù tăng nhưng không vượt được ngưỡng kháng cự 70 USD/thùng.
Nhà phân tích cấp cao Edward Moya , của OANDA cho biết: "Giá dầu vẫn có tuần thứ hai liên tiếp đi lên, nhưng không có đủ cơ sở để thuyết phục các nhà kinh doanh năng lượng tin rằng giá dầu sẽ thoát khỏi phạm vi giao dịch hạn hẹp”.
Tình hình dịch COVID-19 tại "tâm dịch" Ấn Độ ngày 8/5 vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện khi nước này lần đầu tiên ghi nhận hơn 4.000 ca tử vong chỉ trong 1 ngày.
Ngân hàng Commerzbank cho biết: “Những con số kỷ lục về các ca nhiễm mới ở Ấn Độ đang gây xôn xao dư luận và làm dấy lên lo ngại rằng nhu cầu có thể phục hồi chậm hơn.
Công ty tư vấn năng lượng FGE trong một thông báo gửi tới khách hàng của mình đã cho biết rằng sự bùng phát trở lại của đại dịch Covid-19 ở những nước như Ấn Độ, Nhật Bản và Thái Lan đang cản trở nhu cầu xăng dầu hồi phục, mặc dù nhu cầu ở một số quốc gia khác tăng lên, như ở Trung Quốc – nơi vừa có 5 ngày nghỉ lễ Quốc tế lao động với số người đi du lịch vượt xa mức của cùng kỳ năm 2019.
Trong khi đó, OPEC+ đã quyết định thực hiện kế hoạch tăng nhẹ nguồn cung dầu từ ngày 1/5 và sản lượng của OPEC đã tăng trong tháng Tư. Giám đốc tài chính của Velandera Energy, ông Manish Raj nhận xét, nhà đầu tư nhận thức được rằng thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng COVID-19 ở Ấn Độ cùng lúc với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đối tác ngoài khối (còn gọi là nhóm OPEC+) tăng sản lượng.
Sản lượng dầu mỏ của Nga cũng tăng dần theo hạn ngạch phân bổ của OPEC+. Theo đó, trong tháng 4 vừa qua, Nga đã sản xuất 42,81 triệu tấn dầu, tương đương 10,46 triệu thùng/ngày, tăng 1,9% so với tháng 3.
Từ tháng 2 đến tháng 4/2021, Nga và nước láng giềng Kazakhstan là những quốc gia duy nhất được phép tăng sản lượng theo thỏa thuận OPEC +, khi mà các thành viên khác giữ nguyên sản lượng, trong khi Saudi Arabia tự nguyện cắt giảm sản lượng thêm 1 triệu thùng/ngày.
Hạn dành cho Nga trong tháng 4 đã tăng 130.000 thùng/ngày, sau khi đã tăng 65.000 thùng/ngày trong tháng 2 và 3.
Trong khi đó, Công ty dịch vụ năng lượng Mỹ Baker Hughes Co cho biết số lượng giàn khoan dầu khí của nước này, một chỉ báo ban đầu về sản lượng trong tương lai, đã tăng 8 giàn lên 448 giàn trong tuần này, mức cao nhất kể từ tháng 4/2020. Kể từ khi chạm mức thấp kỷ lục vào tháng 8, số lượng giàn khoan đã tăng dần nhưng mức tăng không nhiều, cùng với sự phục hồi của giá dầu.
Số việc làm mới tại Mỹ bất ngờ chậm lại vào tháng 4, khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu nhân lực lao động, nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp đang cố gắng đáp ứng nhu cầu hồi phục mạnh mẽ khi nền kinh tế tăng trưởng trở lại.
Chiến lược gia trưởng phụ trách mảng thị trường của Blue Line Futures LLC ở Chicago, Phil Streible, thông tin với Bloomberg rằng thị trường dầu “đã có một đợt vận hành tốt, nhưng có vẻ đã tăng hơi quá”, và “Giá đã chạm ngưỡng kháng cự nhưng không vượt qua được mà quay đầu giảm trở lại”.
Kim loại quý: Giá tăng mạnh
dịch tăng giảm xen kẽ nhau với biên độ không quá lớn, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ và biến động của đồng USD.
Giá vàng tăng mạnh giao dịch cuối tuần qua do số liệu về việc làm mới của Mỹ bất ngờ gây thất vọng khi chỉ ở mức rất thấp, khiến USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ nhanh chóng quay đầu giảm. Kết thúc phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay tăng 0,84% lên 1.830,41 USD/ounce; giá vàng kỳ hạn giao sau phiên này cũng tăng 0,9% lên 1.831,30 USD/ounce.
Trong bối cảnh Chính phủ Mỹ lần lượt đưa ra nhiều biện pháp kích thích kinh tế, vàng được xem là một biện pháp phòng trừ rủi ro trước nguy cơ lạm phát gia tăng.
Giá vàng cũng được hưởng lợi khi lợi suất trái phiếu 10 năm của Mỹ giảm và chỉ số đồng USD đi xuống. Ngược lại, lợi suất trái phiếu cao hơn làm giảm sức hấp dẫn của vàng vì nó làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng - một loại tài sản không sinh lời.
Sự kiện đáng chú ý trong tuần qua là nhận định Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho rằng Mỹ có thể cần tăng lãi suất để ngăn nền kinh tế phát triển quá nóng khi các kế hoạch chi tiêu của Tổng thống Joe Biden thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng sau đó bà Yellen nói rằng không nhận thấy nguy cơ lạm phát.
Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí nắm giữ vàng, làm giảm sức hấp dẫn của kim loại quý này. Mặc dù các chuyên gia nhận định Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể không tăng lãi suất vào thời điểm này, nhưng phát biểu của Bộ trưởng Yellen cũng ít nhiều có tác động tới thị trường kim loại quý này.
Về những kim loại quý khác, giá palađi phiên cuối tuần qua giảm 0,7% xuống 2.925,15 qua; giá bạc tăng 0,4% lên 27,41 USD/ounce, tính chung cả tuần tăng 5,8%, trong khi palađi giảm 0,2% trong cùng phiên, xuống 1.250.48 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và sắt thép cao kỷ lục
Giá đồng tăng mạnh trong phiên cuối tuần, lập mức cao kỷ lục do các nhà đầu cơ tích cực mua vào sau những dữ liệu kinh tế khả quan phát đi từ một số nền kinh tế lớn trên thế giới và các nền kinh tế phương Tây hồi phục sau đại dịch.
Trong phiên này,, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London có thời điểm vượt qua kỷ lục lịch sử 10.190 USD/tấn đạt được vào năm 2011 để đạt 10.435 USD/tấn. Kết thúc phiên, giá đồng vẫn tăng 3,3% so với phiên liền trước, đạt 1.421 USD/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá đồng kỳ hạn tháng 6 cũng tăng 2,7% lên 74.950 CNY (11.630 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 5/2006 và chỉ thấp hơn 1,6% so với mức kỷ lục lịch sử là 76.160 CNY/tấn.
Như vậy, giá đồng đã tăng 135% kể từ khi chạm mức thấp kỷ lục hồi tháng 3 năm ngoái, khi đại dịch Covid-19 mới bùng phát và chính sách phong tỏa ảnh hưởng đến nhu cầu.
Giá đồng cũng được thúc đẩy bởi những dự báo nhu cầu sẽ tăng mạnh do cuộc cách mạng xanh, dẫn tới nhu cầu sử dụng xe điện và năng lượng tái tạo tăng nhanh – cần tới rất nhiều chất dẫn điện.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME phiên cuối tuần qua tăng 2,1% lên 2,540 USD/tấn, trong khi kẽm tăng 2,8% lên 3,025 USD, nickel Ctăng 0,8% lên 18,090 USD, chì tăng 0,8% lên 2,236 USD, trong khi thiếc giảm 1% xuống 29,840 USD/tấn.
Giá quặng sắt cũng tiếp nối đà tăng. Phiên cuối tuần, quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) đóng cửa phiên giao dịch 7/5 tăng 6,4% lên 1.226,5 CNY (189,78 USD)/tấn, trong phiên có lúc giá đạt tới 1.231 CNY/tấn. Trên sàn Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 6 tăng 3,9% lên 203 USD/tấn.
Tính chung cả tuần, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng khoảng 9% mặc dù nghỉ lễ 3 phiên đầu tuần, là tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 12/2021.
Đặc biệt, quặng sắt giao ngay nhập khẩu vào cảng biển Trung Quốc vượt ngưỡng 200 USD/tấn do nhu cầu mạnh mẽ đối với nguyên liệu sản xuất thép từ Trung Quốc và lo ngại nguồn cung không đáp ứng đủ cầu.
Theo Mysteel, giá quặng sắt Australia hàm lượng 62% CFR cảng Tần Hoàng Đảo phiên 6/5 là 201,15 USD/tấn, tăng 10,95 USD/tấn so với phiên giao dịch liền trước đó (30/5) và là mức cao nhất kể từ khi Mysteel báo giá nguyên liệu này, tháng 1/2010.
Nhu cầu quặng sắt của Trung Quốc đã tăng rất mạnh, nhất là các loại quặng chất lượng cao và ít gây ô nhiễm môi trường.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương cao kỷ lục gần 10 năm
Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago lưu ý rằng, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn tăng cao hơn khi thị trường bước vào đợt mua mới.
Giá ngô Mỹ tuần qua tăng mạnh do lo ngại nguồn cung trên toàn cầu sẽ tiếp tục giảm sút.
Các thương nhân tích cực mua vào vì lo ngại giá sẽ còn tăng thêm nữa do lượng tồn trữ ngô của Mỹ bị thắt chặt. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) sẽ công bố báo cáo hàng tháng vào thứ 4 tới.
Phiên cuối tuần, giá ngô Mỹ giao dịch trên sàn Chicago có thời điểm đạt 7,35-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ tháng 3/2013, trước khi kết thúc ở mức 7,32-1/4 USD/bushel, tăng nhẹ 13-1/2 US cent so với phiên liền trước.
Tính chung cả tuần giá tăng 8,8%.
Giá ngô đã tăng mạnh từ năm ngoái khi Trung Quốc tăng cường nhập khẩu nông sản Mỹ. Tháng 1 năm nay, Trung Quốc tiếp tục mua lượng lớn ngô của Mỹ, với 1,36 triệu tấn, hàng sẽ giao trong năm 2021/22 (bắt đầu từ tháng 9).
Trong khi đó, nguồn cung của Brazil nguy cơ sụt giảm nghiêm trọng do thời tiết khô hạn khiến người mua buộc phải lựa chọn ngô Mỹ dù giá cao ngất ngưởng. Các cánh đồng ngô vụ Đông của Brazil kết thúc một tuần không có mưa. Niên vụ 2021 của nước này có thể sẽ đi vào sách kỷ lục vì là năm khô hạn nhất trong 50 năm qua. Dự báo thời tiết cho thấy, vùng đồng bằng phía Bắc và khu vực Thượng Trung Tây của Mỹ sẽ tiếp tục khô hạn trong 10 ngày tới.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) vừa thông báo rằng, Mỹ vừa bán 1,36 triệu tấn ngô cho Trung Quốc, trong khi bán khoảng 188.468 tấn ngô khác cho một khách hàng khác. Trung Quốc đã mua tổng cộng khoảng 5 triệu đến 6 triệu tấn ngô trong niên vụ trước, và đang có nhu cầu mua ngô và đậu tương vụ mới.
Giá đậu tương cũng tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2012 do lo ngại nguồn cung trên toàn cầu tiếp tục giảm. Phiên cuối tuần, giá đậu tương có lúc đạt 15,99-1/2 USD/bushel, mức chưa từng có kể từ tháng 10/2021, trước khi kết thúc ở mức 15,89-3/4 USD/bushel, vẫn cao hơn 20-1/4 US cent so với phiên trước đó.
Tính chung cả tuần, giá đậu tương tăng 3,6%, tương đương mức tăng của giá ngô.
Những dự báo sơ bộ cho rằng USDA sẽ công bố tồn trữ đậu tương của Mỹ cuối niên vụ 2021/22 ở mức chỉ 138 triệu bushel, và sản lượng niên vụ 2020/21 sẽ giảm xuống 117 triệu bushel, từ mức 120 triệu bushel dự báo tháng trước.
Cùng chung xu hướng tăng giá các loại hạt, giá lúa mì phiên cuối tuần cũng tăng 8-1/2 US cent lên 7,61-3/4 USD/bushel trên sàn Chicago, gần sát mức cao nhất trong vòng 8 năm đạt được vào tuần trước.
Cơ quan Thống kê Canada ước tính lượng dự trữ lúa mỳ của nước này hiện ở mức 16,2 triệu tấn, thấp hơn một chút so với ước tính. Bất kỳ sự thiệt hại nào của vụ mùa mới tại Canada sẽ có tác động lớn đến giá lúa mỳ thế giới.
AgResource lạc quan vào giá nông sản trong ngắn hạn, bởi bất kỳ diễn biến tiêu cực nào của thời tiết ở Mỹ, Biển Đen hoặc Canada sẽ đẩy giá các loại nông sản lên mức cao mới và dự kiến mức cao nhất được điều chỉnh theo mùa sẽ rơi vào tháng Bảy hoặc tháng Tám năm nay.
Giá cà phê arabica phiên cuối tuần 7/5 giảm khỏi mức cao kỷ lục trong vòng 4 năm ở phiên trước đó do nhà đầu tư giảm mua khi giá tăng quá cao.
Kết thúc phiên này, arabica kỳ hạn tháng 7 giảm 1,4%, tương đương 0,9%, xuống 1,5290 USD/lb. Hợp đồng này đã đạt 1,5540 USD vào thứ Năm 7/5, cao nhất kể từ tháng 1/2017; giá robusta phiên này cũng giảm 8 USD (0,5%) xuống 1.539 USD/tấn.
Giá arabica tăng gần đây bởi thời tiết khô hạn ở Brazil – nước sản xuất arabica hàng đầu thế giới, khiến sản lượng dự báo giảm xuống.
Đồng real Brazil tăng cũng góp phần đẩy giá arabica tăng lên. Real đã tăng lên mức cao nhất hơn 3 tháng trong ngày 7/5.
Ngân hàng đầu tư Itau BBA cho biết triển vọng giá cà phê sẽ còn tiếp tục tăng vì Brazil bắt đầu bước vào mùa Đông, mùa có thể xảy ra hiện tượng thời tiết sương giá. Ngân hàng này cũng nhận định Brazil có thể sẽ đón những cơn mưa trong những ngày tới, sau khi khô hạn kéo dài trong thời gian qua.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 trong phiên cuối tuần giảm 0,06 US cent, tương đương 0,3%, xuống 17,49 cent/lb, sau khi chạm mức cao nhất một tuần rưỡi, là 17,89 US cent trong phiên liền trước. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 phiên cuối tuần cũng tăng 1,80 USD, tương đương 0,4% lên 464,70 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, mặt hàng đường có thể được bán ra nhiều trong thời gian tới do mức chênh lệch giá (trừ lùi) giữa hợp đồng kỳ hạn tháng 7 với kỳ hạn tháng 5 ngày càng tăng lên, là dấu hiệu cho thấy nguồn cung ở những khoảng thời gian đó tăng.
Mặc dù giá phiên này giảm song các nhà phân tích dự báo nguồn cung ở Brazil giảm sẽ đẩy giá đường sớm tăng trở lại.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản trong phiên cuối tuần tăng vào lúc đầu phiên, nhưng giảm vào cuối phiên sau 3 phiên tăng trước đó.
Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 10 trên sàn Osaka giảm 2,4 JPY vào lúc đóng cửa, tương đương 0,9%, xuống 255,5 JPY (2,3 USD)/kg, sau khi có lúc đạt mức cao nhất kể từ 24/3 là 260 JPY/kg.
Tính chung cả tuần giá tăng 4,3%.
Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 9 phiên cuối tuần tăng 150 CNY lên 14.444 CNY (2.238 USD)/tấn vào cuối phiên, trước đó, lúc đầu phiên có lúc giá đạt mức cao nhất 7 tuần là 14.625 CNY. Trên sàn Singapore, giá cao su kỳ hạn tháng 6 cũng tăng 0,5% trong phiên cuối tuần, lên 172,3 JPY/kg. Lượng cao su lưu kho trên sàn Thượng Hải tuần này chỉ giảm 10 tấn so với tuần trước.
Jiong Gu, một nhà phân tích thuộc Yutaka Shoji Co cho biết: “Hôm thứ Năm (6/5), các nhà đầu tư ngắn hạn đã mua cao su vào do giá tăng ít hơn so với các hàng hóa khác. Tuy nhiên, hôm sau họ nhanh chóng bán ra để thu lời”.
Ông Gu dự đoán: “Giá cao su sẽ dao động trong biên độ hẹp, từ 245 JPY đến 260 JPY trong tháng này do thị trường về cơ bản đang có xu hướng giảm khi nhu cầu từ các nhà sản xuất lốp xe chậm lại”.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 30/4

Giá 7/5

30/4 so với 29/4

30/4 so với 29/4 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

63,58

65,44

+0,54

+0,83%

Dầu Brent

USD/thùng

66,76

68,89

+0,61

+0,89%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.720,00

43.560,00

-290,00

-0,66%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

2,96

+0,00

+0,07%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

207,63

216,37

+3,68

+1,73%

Dầu đốt

US cent/gallon

192,24

203,42

+2,36

+1,17%

Dầu khí

USD/tấn

533,75

557,50

+7,00

+1,27%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.240,00

59.070,00

-290,00

-0,49%

Vàng New York

USD/ounce

1.767,70

1.835,70

+4,40

+0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.210,00

6.403,00

+19,00

+0,30%

Bạc New York

USD/ounce

25,87

27,70

+0,22

+0,81%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,40

95,40

-0,30

-0,31%

Bạch kim

USD/ounce

1.203,39

1.259,14

+3,16

+0,25%

Palađi

USD/ounce

2.941,47

2.930,53

+6,56

+0,22%

Đồng New York

US cent/lb

446,80

476,55

+1,70

+0,36%

Đồng LME

USD/tấn

9.825,00

10.417,00

+325,00

+3,22%

Nhôm LME

USD/tấn

2.397,00

2.540,00

+51,50

+2,07%

Kẽm LME

USD/tấn

2.926,00

3.015,00

+71,50

+2,43%

Thiếc LME

USD/tấn

28.690,00

29.815,00

-310,00

-1,03%

Ngô

US cent/bushel

673,25

732,25

+13,50

+1,88%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

734,75

761,75

+8,50

+1,13%

Lúa mạch

US cent/bushel

405,75

414,50

-4,25

-1,01%

Gạo thô

USD/cwt

13,70

14,49

+0,29

+2,04%

Đậu tương

US cent/bushel

1.534,25

1.589,75

+20,25

+1,29%

Khô đậu tương

USD/tấn

426,10

441,80

+14,50

+3,39%

Dầu đậu tương

US cent/lb

62,39

64,48

+0,13

+0,20%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

710,20

752,10

-9,50

-1,25%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.382,00

2.463,00

+50,00

+2,07%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

141,45

152,90

-1,40

-0,91%

Đường thô

US cent/lb

16,98

17,49

-0,06

-0,34%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

111,95

114,45

+3,55

+3,20%

Bông

US cent/lb

88,08

89,66

-0,92

-1,02%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

1.376,50

1.670,50

+63,00

+3,92%

Cao su TOCOM

JPY/kg

168,00

174,20

+1,20

+0,69%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg