Cây chè và văn hoá uống trà của người Việt
Với nhiều dân tộc trên thế giới, từ lâu trà đã trở thành một trong những thứ đồ uống rất phổ biến, nhưng ở mỗi quốc gia, khu vực người ta lại có những niềm say mê trà theo cách khác nhau. Với những người dân châu Á thì uống trà đã được nâng lên thành một nghệ thuật mang đậm chất thơ và màu sắc tôn giáo. Những quốc gia có nền văn hóa trà nổi bật phải kể đến, như: Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam.
Nếu ví trà Nhật như một nhà hiền triết, lấy thiền làm gốc, mỗi chi tiết hành động đều mang ý nghĩa sâu xa, thâm thúy; trà Trung Quốc lại như một cô gái đỏm dáng lúc nào cũng cầu kỳ, diêm dúa trong từng cử chỉ, hành động thì trà Việt chỉ đơn giản như một cô thôn nữ mang vẻ đẹp khiêm nhường đầy dung dị.
Văn hóa uống trà của người Việt không khắt khe, cầu kỳ như trà đạo Nhật Bản, trong trà đạo Việt, chữ “đạo” được hiểu là “con đường”, là phong cách uống trà của người Việt. Người Việt không uống trà nhiều, liên tục mà nhấp từng ngụm nhỏ, cảm nhận hết những dư vị tinh túy của trà, uống trà với quan niệm rằng trà là một triết học về sự tế nhị và thanh tao. Vì vậy, có được những sản phẩm trà chất lượng, hương vị đặc trưng của trà Việt là điều vô cùng quan trọng.
Giữ trọn văn hoá trà Việt
Theo bà Sharyn Johnston - Giám đốc Tổ chức Australia Tea Masters - cho biết, bà ấn tượng với trà Việt của bà là từ sự phong phú và đa dạng các loại trà nhưng đều mang nét đặc trưng chung trong hương vị.
“Trà Việt có rất nhiều loại khác nhau, từ nhiều vùng, miền trên cả nước, như: Trà xanh Tân Cương (Thái Nguyên), trà San tuyết (Suối Giàng - Hà Giang; Mộc Châu - Sơn La), trà Ô long (Lâm Đồng)” - bà Sharyn Johnston liệt kê và đánh giá, sản phẩm trà Việt Nam đã được khách hàng trên thế giới biết đến từ lâu, tuy nhiên các nhà sản xuất và xuất khẩu trà Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về chi phí sản xuất, công nghệ chế biến, tiêu chuẩn chất lượng, quảng bá, xây dựng thương hiệu…
Trong khi đó, cách thức trồng, chế biến trà hiện có một số khâu chưa tuân thủ tiêu chuẩn nên rất khó đảm bảo chất lượng, chưa kể tới chuyện tranh mua, tranh bán nguyên liệu là một trong những bất cập của ngành sản xuất trà của Việt Nam.
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, trước đây, nông dân thu hái chè búp tươi khoảng 2-3 lá, nhưng nay người dân cắt cả… cành, không theo tiêu chuẩn chung. Quy chuẩn về nguyên liệu, máy móc, vệ sinh an toàn thực phẩm ở nhiều nhà máy có quy mô nhỏ không được kiểm tra, giám sát nên chất lượng chè vẫn là vấn đề bất cập.
Thấu hiểu điều đó, để có thể hội tụ tinh hoa trong sản phẩm trà, Công ty TNHH Trà SongYing (xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội) đã hoàn thiện từ quá trình trồng, thu hoạch; đầu tư dây chuyền sản xuất và áp dụng quy trình chế biến tiên tiến nhất hiện nay.
“Với vùng trồng chè trên núi Tản Viên ở độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển, cùng quy trình trồng, chăm sóc, thu hái hiện đại đã mang đến cho doanh nghiệp nguồn nguyên liệu chất lượng cao” - bà Phạm Thu Trang - Giám đốc Công ty TNHH Trà Song Ying - giới thiệu và cho biết, theo đó, chè phải được hái bằng tay, đảm bảo mỗi nhánh phải còn đủ một tôm và hai lá non trên búp. Sau đó, những lá chè tươi sẽ được mang đi làm héo liên tục với quá trình ra nhiệt đảm bảo an toàn và tỉ mỉ, giữ trọn hương vị tinh túy của lá chè.
Bên cạnh đó, công ty xây dựng nhà máy sản xuất với hệ thống trang thiết bị hiện đại nhất theo công nghệ sạch của châu Âu, cùng một đội ngũ cán bộ, kỹ sư có chuyên môn cao, đảm bảo sản xuất ra những loại trà chất lượng, an toàn nhất, mang hương vị thanh khiết rất riêng và mang nhiều dưỡng chất có lợi cho sức khỏe.
Kỳ công và tinh tế từ khâu chọn trà, đến các thao tác ướp, ủ, giữ gìn bảo quản trà, các sản phẩm trà của SongYing đã từng bước chiếm lĩnh thị trường và được khách hàng đánh giá như một thức uống tuy giản dị nhưng chứa đựng cả tinh hoa của đất trời, là món quà cho sức khỏe.
“Bằng công nghệ hiện đại, quy trình khép kín và bằng cái tâm của mình, SongYing luôn đề cao chất lượng sản phẩm, giữ lại nét tinh tuý của trà Việt trong từng sản phẩm của mình” - bà Phạm Thu Trang khẳng định.

Nguồn: baocongthuong.com.vn