Trong đó, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,45 tỷ USD, tương ứng tăng 13,1%; hàng dệt may tăng 1,26 tỷ USD, tương ứng tăng 11,5%; giày dép các loại tăng 864 triệu USD, tương ứng tăng 13,8%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 636 triệu USD, tương ứng tăng 18,8%...
Nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện: Xuất khẩu mặt hàng này trong 5 tháng đầu năm đạt 19,72 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó xuất khẩu chủ yếu sang EU (28 nước) đạt 5,27 tỷ USD, giảm 6,5%; xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 3,77 tỷ USD tăng mạnh 91,7%; sang thị trường Hàn Quốc đạt 2,04 tỷ USD, tăng 7,6%... so với cùng kỳ năm 2018.
Hàng dệt may: Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng 5 đạt 2,73 tỷ USD, tăng 16,6% so với tháng trước. Qua đó, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng/2019 lên 12,19 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Mỹ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 5,7 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2018, và chiếm 46,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.
Tiếp theo là thị trường Nhật Bản đã tiêu thụ 1,46 tỷ USD, tăng 5%; thị trường EU (28 nước) tiêu thụ 1,56 tỷ USD, tăng 7,5%.
Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện: có trị giá xuất khẩu đạt 12,55 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong 5 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung Quốc đạt 3,19 tỷ USD, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước; sang thị trường EU (28 nước) đạt 2,05 tỷ USD, giảm 1,5%; sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,78 tỷ USD, tăng mạnh 71,6%; sang Hàn Quốc đạt 1,16 tỷ USD, tăng 3,7%...
Hàng nông sản (bao gồm hàng rau quả, hạt điều, hạt tiêu, chè, cà phê, gạo, sắn và sản phẩm sắn, cao su):
Xuất khẩu nhóm hàng này đạt 7,02 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, giảm 10,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất nhập khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam trong 5 tháng qua với 2,48 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Tiếp theo là thị trường EU (28 nước) đạt 1,09 tỷ USD, giảm 9,4%; sang Hoa Kỳ với 668 triệu USD, giảm 21,6%...
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: kim ngạch xuất khẩu đạt 6,82 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Các thị trường nhập khẩu mặt hàng này là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc….
Giày dép các loại: xuất khẩu giày dép các loại trong 5 tháng qua đạt 7,11 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2018, với hai thị trường chính là EU và Mỹ, chiếm 64,9% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam.
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ: đạt 4,02 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2018, chủ yếu được xuất khẩu sang Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.
Phương tiện vận tải và phụ tùng: trong 5 tháng đầu năm đạt 755 triệu USD, tăng 13,4% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng/2019 đạt 3,58 tỷ USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Các thị trường nhập khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng từ Việt Nam trong 5 tháng đầu năm gồm: Nhật Bản với trị giá đạt 1,07 tỷ USD, tăng 11,9%; sang Hoa Kỳ đạt 623 triệu USD, tăng 24,9%; sang Singapore đạt trị giá 245 triệu USD, tăng 0,7% …
Thuỷ sản: trị giá xuất khẩu mặt hàng này đạt 3,18 tỷ USD, giảm nhẹ 0,7% so với cùng thời gian năm 2018.
Hàng thủy sản của Việt Nam trong 5 tháng qua chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mỹ, EU và Trung Quốc.
Sắt thép các loại:xuất khẩu mặt hàng này trong 5 tháng đạt 2,93 triệu tấn, trị giá 1,89 tỷ USD, tăng 24,4% về lượng và tăng 7,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Tính đến hết tháng 5/2019 sắt thép các loại chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường như Campuchia, Indonesia, Malaysia và Mỹ.
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện: trị giá xuất khẩu trong tháng 5 là 362 triệu USD, giảm 7,8% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng đầu năm 2019 đạt 1,83 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng thời gian năm 2019.
Trong 5 tháng tính từ đầu năm 2019, máy ảnh, máy quay phim và linh kiện chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường: Trung Quốc với 849 triệu USD, tăng 14,9%; Hồng Kông: 286 triệu USD; giảm 41,3%; Ấn Độ với 224 triệu USD, tăng 150,7%... so với một năm trước đó.
Nguồn: Vietnamexport.com