Hướng tới tầm nhìn mới cho 5 năm tới
Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương đang khẩn trương xây dựng chiến lược xúc tiến thương mại giai đoạn 2026-2030 với mục tiêu định hướng cho công tác xúc tiến trong 5 năm tới. Đây được nhìn nhận là bước chuẩn bị cho triển khai công tác xúc tiến thương mại trong bối cảnh mới khi thương mại toàn cầu nhiều biến động, các yêu cầu về chuyển đổi số, xanh hóa sản xuất và giá trị gia tăng ngày càng khắt khe.
Theo dự thảo báo cáo, mục tiêu xuyên suốt là phát triển hệ sinh thái xúc tiến thương mại đầy đủ, toàn diện, hiện đại, có tính kết nối cao, giúp doanh nghiệp Việt làm chủ khâu phân phối, đẩy mạnh tiêu thụ trong nước và xuất khẩu những ngành hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao. Trên cơ sở đó, tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2026-2030 được kỳ vọng đạt 13-16%/năm, một con số đầy tham vọng.
Hội thảo báo cáo xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược kế hoạch giai đoạn 2026-2030
Định hướng chiến lược lần này có thể nhìn rõ xu hướng chuyển động của thị trường thế giới với đổi mới toàn diện, thích ứng chuyển đổi số và chuyển đổi xanh; chuyên nghiệp hóa hệ thống; đẩy mạnh kết nối dịch vụ, marketing quốc gia; song song với xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm. Đặc biệt, chiến lược nhấn mạnh ưu tiên xúc tiến theo cụm ngành hàng nhằm tăng hiệu quả liên kết, giảm chi phí và khai thác dữ liệu thị trường.
Chia sẻ tại hội thảo góp ý cho dự thảo báo cáo được tổ chức gần đây, các chuyên gia đều đánh giá cao tinh thần quyết tâm và sự công phu của bản báo cáo. Tuy vậy, nhiều chuyên gia cho rằng cần nhìn thẳng vào thực trạng hạ tầng xúc tiến. Việc thiếu vắng những trung tâm hội chợ triển lãm tầm cỡ quốc gia, chi phí tổ chức sự kiện còn cao, hay ngân sách dành cho xúc tiến thương mại vẫn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực là những rào cản cần được tháo gỡ. Cùng với đó, hiệu quả xúc tiến không chỉ đo bằng kim ngạch xuất khẩu, mà còn bởi những giá trị xã hội, văn hóa, việc làm mà nó mang lại.
Ưu tiên ngành hàng giá trị gia tăng cao
Một trong những điểm nhấn được các chuyên gia, hiệp hội đồng thuận là cần lựa chọn ngành hàng ưu tiên dựa trên giá trị gia tăng nội địa, chứ không chỉ nhìn vào kim ngạch xuất khẩu.
Ông Phạm Công Thảo, đại diện Hiệp hội Thép Việt Nam thẳng thắn: “Hiện nay tiêu chí chủ yếu dựa trên kim ngạch xuất khẩu, nhưng điều này chưa phản ánh hết giá trị gia tăng. Có những ngành xuất khẩu lớn nhưng giá trị giữ lại trong nước không cao. Trong khi đó, ngành như thép đã đầu tư mạnh, tỷ lệ nội địa hóa lớn, giá trị gia tăng trong nước rõ rệt, cần được coi trọng”.
Thực tế, theo dự thảo chiến lược, 6 nhóm ngành hàng trọng điểm giai đoạn 2026-2030 bao gồm: Điện tử và linh kiện, dệt may, da giày, công nghiệp vận tải và linh kiện, nông thủy sản chế biến, đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra, một số ngành mới nổi nhưng được Chính phủ xác định là ưu tiên phát triển, như công nghệ thông tin, logistics, hàng hóa môi trường (năng lượng tái tạo, tái chế chất thải…), cũng sẽ được chú trọng. Đây đều là những lĩnh vực có tiềm năng mở rộng thị trường, gắn với yêu cầu xanh hóa và đổi mới sáng tạo.

Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại , Bộ Công Thương
Tuy nhiên, để các ngành thực sự hưởng lợi, cách làm xúc tiến cũng cần thay đổi. Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam cho rằng: “Doanh nghiệp gần như không trông chờ vào các chương trình, nhưng nếu không tận dụng được thì sẽ kém cạnh tranh hơn. Điều quan trọng là thủ tục, quy trình cần đơn giản, để doanh nghiệp dễ tiếp cận chính sách”.
Điều này trùng khớp với định hướng trong báo cáo: Đổi mới Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại theo hướng tập trung chiều sâu, tăng cường năng lực doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ động tiếp cận khách hàng toàn cầu, gắn với thương mại điện tử xuyên biên giới. Cục Xúc tiến thương mại sẽ tập trung vào marketing quốc gia và sự kiện liên ngành, còn các hiệp hội, tổ chức xúc tiến ngành sẽ chủ trì hoạt động chuyên sâu cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các chuyên gia khuyến nghị, chiến lược cần lồng ghép thêm các yếu tố phòng ngừa rủi ro như xây dựng kịch bản ứng phó khi thị trường biến động, hay nguy cơ chuyển tải hàng hóa qua nước thứ ba khi tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu còn cao. Đặc biệt, trong bối cảnh một số nước lớn thâu tóm hệ thống phân phối toàn cầu, Việt Nam cần sớm có chiến lược phân phối riêng và phát triển công nghiệp phụ trợ, nhằm giữ giá trị gia tăng trong nước.
Từ góc nhìn địa phương, bà Nguyễn Thị Kim Ngọc (Cần Thơ) cho rằng việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại, thống nhất hệ thống trung tâm xúc tiến các tỉnh, là yêu cầu cấp bách để tránh phân tán nguồn lực. Còn theo đại diện Hiệp hội Cao su Việt Nam, năng lực xúc tiến của hiệp hội còn hạn chế, nhiều năm qua chủ yếu dựa vào kinh phí doanh nghiệp đóng góp. Muốn bứt phá, cần sự hỗ trợ từ Cục để hiệp hội xây dựng chương trình dài hơi, tạo thương hiệu ngành hàng cả trong nước và quốc tế.
Nhìn tổng thể, chiến lược xúc tiến thương mại giai đoạn 2026-2030 được thiết kế nhằm kết nối đồng bộ từ trung ương đến địa phương, từ hiệp hội đến doanh nghiệp, từ sản phẩm đơn lẻ đến cả chuỗi ngành hàng. Cốt lõi vẫn là ưu tiên cho các ngành có giá trị gia tăng cao, có khả năng tự chủ nguyên liệu và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đây sẽ là cơ sở quan trọng để thương mại Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển bền vững hơn khi không chỉ tăng trưởng về lượng, mà còn nâng cao chất lượng, giá trị và vị thế trên trường quốc tế.