Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do nhu cầu giảm sút trong khi dự báo sản lượng tăng tại Bắc Mỹ và châu Phi.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2016 trên sàn New York giảm 19 cent, tương đương 0,4%, xuống 48,88 USD/thùng, thấp nhất kể từ 3/6. Giá dầu Brent giao tháng 8/2016 trên sàn London giảm 19 cent, tương ứng 0,4%, xuống 50,35 USD/thùng. Trước đó, trong phiên có lúc giá dầu Brent xuống dưới 50 USD/thùng, lần đầu tiên trong một tuần qua.
Số liệu của hãng tư vấn Genscape cho thấy lượng dầu lưu kho tại Cushing, Oklahoma từ 3-10/6 tăng thêm 525.000 thùng. Số giàn khoan dầu của Mỹ ghi nhận tuần tăng thứ 2 liên tiếp và lượng dầu lưu kho tại Cushing cũng tăng. Số liệu này củng cố quan điểm cho rằng đà tăng của giá dầu đang khuyến khích các nhà sản xuất tăng cường hoạt động thăm dò và khoan. Tình trạng thừa cung có thể trở lại vào tháng 7 và gây áp lực lên giá dầu trong nửa cuối năm nay, Morgan Stanley cho biết hôm Chủ nhật 12/6.
Tình hình bất ổn ngày một tăng liên quan đến cuộc trưng cầu dân ý tại nước Anh vào tuần tới, cũng như quyết sách về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến được công bố trong tuần này, đã làm dấy lên tâm lý thận trọng trên thị trường năng lượng.

Số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ hiện vẫn thấp hơn 48% so với hồi đầu năm nay bất chấp đà tăng gần đây. Tuy nhiên, sản lượng dầu thô của Mỹ cùng kỳ chỉ giảm 9%.

Giá dầu đã tăng hơn 80% kể từ mức đáy 13 năm qua ghi nhận hồi đầu năm nay, chủ yếu nhờ sự gián đoạn nguồn cung bất ngờ từ Nigeria đến Canada và sản lượng dầu thô của Mỹ giảm. Nhưng đà tăng của giá dầu cũng khuyến khích các nhà sản xuất tăng sản lượng, đẩy thị trường lại rơi vào tình trạng thừa cung.

Chuyên gia phân tích Tim Evans thuộc Citi Futures cho rằng các nhà đầu tư dường như đang tạm ngừng mua vào “vàng đen” ở thời điểm trước khi diễn ra cuộc họp chính sách của Fed và cuộc trưng cầu dân ý tại Anh.
Trong báo cáo tháng 6/2016, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã giữ nguyên dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong năm nay ở mức hơn 94 triệu thùng/ngày, tăng hơn 1 triệu thùng so với năm ngoái. OPEC nhận định tình trạng dư cung trên thị trường có thể dịu đi trong những quý tới.
Theo các nhà phân tích tại Barclays, đã xuất hiện dấu hiệu cho thấy đà suy giảm tại Ấn Độ, nhất là về doanh số bán ôtô trong khi tác động của gói kích thích tại Trung Quốc - nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ 2 thế giới - cũng đang suy giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng lập mức cao kỷ lục 4 tuần USD suy yếu và chứng khoán bị ảnh hưởng bởi tâm lý né tránh rủi ro trước phiên thềm phiên họp chính sách của Fed trong tuần này và cuộc bỏ phiếu của người Anh về Brexit vào ngày 23/6 tới đây.
Giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 1.284,76 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8/2016 tăng 11 USD, tương ứng 0,9%, lên 1.286,9 USD/ounce, cao nhất kể từ 6/5.
Lo ngại người dân Anh sẽ bỏ phiếu ủng hộ việc ra khỏi EU (Brexit) vào tuần tới đã lan rộng khắp thị trường tài chính trong phiên 13/6, đẩy giá cổ phiếu châu Á và châu Âu giảm mạnh. Đồng bạc xanh cũng giảm 0,2% so với euro.
Bảng Anh xuống thấp nhất 2 tháng so với USD, đẩy giá vàng bằng đồng tiền này lên cao nhất trong gần 3 năm qua ở 909,83 bảng/ounce, tăng 1,9%.
Đồn đoán Fed sẽ sớm nâng lãi suất giảm xuống đã giúp giá vàng tăng mạnh tính từ đầu tháng 6 đến nay. Giá vàng đã tăng 6% kể từ thời điểm công bố số liệu việc làm tháng 5 đáng thất vọng hôm 3/6, kéo giảm đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào mùa hè này.
Fed, Ngân hàng trung ương Anh, Ngân hàng trung ương Thụy Sỹ và Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đều họp chính sách trong tuần này và được dự đoán sẽ giữ ổn định chính sách tiền tệ và giữ thái độ cẩn trọng về viễn cảnh kinh tế toàn cầu cũng như tác động của Brexit.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,3% lên 17,37 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,6% lên 996,23 USD/ounce và giá palladium tăng 1,1% lên 548,25 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt tăng. Tại London, robusta tăng 6-7 USD/tấn. Tại New York, arabica tăng 0,35-0,55 cent/lb.
Hiệp hội Xuất khẩu Cà phê Brazil cho biết, xuất khẩu cà phê của nước này trong tháng 5/2016 đạt 2.176.868 bao, giảm 317.793 bao, hay 12,74%, so với tháng 5/2015. Trong khi đó, xuất khẩu cà phê hòa tan giá trị gia tăng đạt 238.178 bao, giảm 48.716 bao, hay 16,98%, so với cùng kỳ. Như vậy, tổng xuất khẩu cà phê tháng 5/2016 của Brazil đạt 2.415.046 bao, giảm 366.409 bao, tương ứng 13,17%, so với tháng 5/2016.
Xuất khẩu giảm chủ yếu do xuất khẩu cà phê Robusta trong tháng 5 giảm mạnh, chỉ đạt 66.868 bao, giảm 337.693 bao, hay 83,47%.

Giá hàng hóa thế giới 

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,88

-0,19

-0,4%

Dầu Brent

USD/thùng

50,35

-0,19

-0,4%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

31.250,00

-50,00

-0,16%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,59

+0,00

+0,08%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

152,56

-1,06

-0,69%

Dầu đốt

US cent/gallon

150,36

-1,09

-0,72%

Dầu khí

USD/tấn

446,25

-6,00

-1,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.200,00

-70,00

-0,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.285,10

+1,80

+0,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.353,00

+10,00

+0,23%

Bạc New York

USD/ounce

17,35

-0,10

-0,56%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,90

+0,40

+0,68%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

990,80

-0,04

0,00%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

540,85

-2,37

-0,44%

Đồng New York

US cent/lb

205,85

+0,50

+0,24%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.557,00

+47,00

+1,04%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.600,00

+27,00

+1,72%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.077,00

-9,00

-0,43%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

17.150,00

+50,00

+0,29%

Ngô

US cent/bushel

426,00

-4,00

-0,93%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

488,00

-3,25

-0,66%

Lúa mạch

US cent/bushel

201,75

-3,50

-1,71%

Gạo thô

USD/cwt

11,19

-0,12

-1,10%

Đậu tương

US cent/bushel

1.142,75

-16,25

-1,40%

Khô đậu tương

USD/tấn

402,30

-5,10

-1,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,31

-0,20

-0,62%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

524,50

-4,60

-0,87%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.109,00

+10,00

+0,32%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

139,30

+0,45

+0,32%

Đường thô

US cent/lb

19,64

-0,09

-0,46%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

167,40

-0,15

-0,09%

Bông

US cent/lb

63,88

-0,20

-0,31%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

302,10

-4,00

-1,31%

Cao su TOCOM

JPY/kg

152,50

-0,70

-0,46%

Ethanol CME

USD/gallon

1,70

+0,00

+0,24%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg