Tỷ giá USD trong nước
Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với đô la Mỹ ở mức: 23.222 VND/USD (tăng 10 đồng so với hôm qua). Tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN vẫn duy trì ở mức 23.175 - 23.650 VND/USD (mua vào - bán ra).
Với biên độ 3% được qui định, hiện tỷ giá USD các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép giao dịch trong khoảng 22.525 - 23.919 VND/USD, tỷ giá mua - bán USD được công bố như sau:
Ngân hàng Vietcombank giá USD được niêm yết 23.110 – 23.320 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi cả giá mua và giá bán so với hôm qua. Ngân hàng ACB niêm yết 23.125 – 23.295 VND/USD, tăng 15 đồng cả giá mua và giá bán. Đông Á niêm yết 23.160 - 23.290 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi.
Techcombank niêm yết 23.120 - 23.320 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 10 đồng cả giá mua và giá bán.
Ngân hàng VPbank giá USD được niêm yết 23.120 – 23.320 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi.
Ngân hàng Quốc tế - VIB niêm yết 23.120 - 23.320 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi.
Sacombank niêm yết 23.123 - 23.303 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 8 đồng cả giá mua và giá bán.
Tại Vietinbank, niêm yết 23.132 - 23.321 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 22 đồng giá mua và tăng 21 đồng giá bán.
BIDV niêm yết 23.140 - 23.320 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 5 đồng cả 2 chiều mua bán.
Giá USD tự do niêm yết ở mức mua vào 23.200 đồng/USD và bán ra 23.240 đồng/USD, tăng 20 đồng cả giá mua và giá bán so với hôm qua.
Bảng so sánh tỷ giá ngoại tệ mới nhất hôm nay cập nhật lúc 10h30 có 4 ngoại tệ tăng giá, 11 ngoại tệ giảm giá mua vào. Chiều tỷ giá bán ra có 5 ngoại tệ tăng giá và 18 ngoại tệ giảm giá.
Tỷ giá ngoại tệ 12/6/2020
ĐVT: đồng
Tên ngoại tệ
|
Mã ngoại tệ
|
Mua Tiền mặt
|
Mua chuyển khoản
|
Bán ra
|
Đô la Úc
|
AUD
|
15.542,21 (-280,40)
|
15.664,31 (-281,80)
|
16.127,03 (-275,24)
|
Đô la Canada
|
CAD
|
16.735,86 (-214,01)
|
16.865,91 (-215,69)
|
17.241,70 (-210,22)
|
Franc Thuỵ Sĩ
|
CHF
|
23.945,22 (-49,44)
|
24.352,87 (-65,57)
|
24.684,66 (-44,54)
|
Nhân Dân Tệ
|
CNY
|
3.221,99 (+4,13)
|
3.236,11 (-1,56)
|
3.347,61 (-0,94)
|
Krone Đan Mạch
|
DKK
|
0
|
3.449,82 (-21,21)
|
3.613,76 (-21,93)
|
Euro
|
EUR
|
25.843,35 (-195,64)
|
25.981,70 (-196,34)
|
26.629,73 (-187,70)
|
Bảng Anh
|
GBP
|
28.713,92 (-278,67)
|
28.922,62 (-297,54)
|
29.444,24 (-283,48)
|
Đô la Hồng Kông
|
HKD
|
2.806,01 (+0,23)
|
2.940,45 (+0,24)
|
3.053,01 (+0,56)
|
Rupee Ấn Độ
|
INR
|
0
|
304,06 (-1,62)
|
315,99 (-1,68)
|
Yên Nhật
|
JPY
|
213,08 (+0,51)
|
214,71 (+0,29)
|
220,09 (+0,62)
|
Won Hàn Quốc
|
KRW
|
17,10 (-0,18)
|
18,44 (+0,08)
|
20,68 (-0,50)
|
Kuwaiti dinar
|
KWD
|
0
|
75.361,47 (-49,05)
|
78.318,38 (-50,97)
|
Ringit Malaysia
|
MYR
|
5.082,96 (-40,12)
|
5.336,60 (-24,55)
|
5.575,55 (-28,42)
|
Krone Na Uy
|
NOK
|
0
|
2.355,69 (-59,29)
|
2.476,36 (-61,22)
|
Rúp Nga
|
RUB
|
0
|
314,30 (-6,13)
|
375,19 (-6,44)
|
Rian Ả-Rập-Xê-Út
|
SAR
|
0
|
6.177,17 (+1,15)
|
6.419,54 (+1,20)
|
Krona Thuỵ Điển
|
SEK
|
0
|
2.438,37 (-24,12)
|
2.556,54 (-24,39)
|
Đô la Singapore
|
SGD
|
16.393,24 (-69,53)
|
16.504,03 (-70,16)
|
16.861,83 (-62,70)
|
Bạc Thái
|
THB
|
688,20 (-6,13)
|
727,52 (-5,72)
|
777,26 (-6,29)
|
Đô la Mỹ
|
USD
|
23.128,33 (+7,22)
|
23.142,89 (+4)
|
23.312,67 (+7,11)
|
Kip Lào
|
LAK
|
0
|
2,25
|
2,55
|
Ðô la New Zealand
|
NZD
|
14.646 (-214,50)
|
14.717,80 (-241)
|
15.037 (-218,33)
|
Đô la Đài Loan
|
TWD
|
707,86 (-2,83)
|
786,66 (+0,17)
|
829,84 (-1,74)
|
|
Ind
|
0
|
1,68
|
0
|
Riêl Campuchia
|
KHR
|
0
|
5
|
5
|
Peso Philippin
|
PHP
|
0
|
463
|
493 (+1)
|
|
ZAR
|
0
|
1.575
|
1.976
|
Tỷ giá USD thế giới tăng
USD Index tăng 0,84% lên 96,760 điểm vào lúc 6h35 (giờ Việt Nam). Tỷ giá euro so với USD tăng 0,01% lên 1,1298. Tỷ giá đồng bảng Anh so với USD giảm 0,13% xuống 1,2584. Tỷ giá USD so với yen Nhật giảm 0,03% xuống 106,81.
Tỷ giá USD đã tăng khi chứng khoán Mỹ lao dốc trong bối cảnh triển vọng về một nền kinh tế phục hồi nhanh chóng sau đại dịch đã mờ nhạt dần.
Mặc dù đồng yen Nhật và franc Thụy Sĩ lần lượt leo lên mức đỉnh một tháng và 3 tháng so với đồng bạc xanh, USD Index vẫn gia tăng nhờ giới đầu tư bán tháo các loại tiền tệ rủi ro như đồng euro, bảng Anh và đô la Úc.
John Doyle, Phó giám đốc giao dịch tại Tempus Inc. ở Washington, cho biết thị trường đang tỏ ra lo ngại về một làn sóng lây nhiễm COVID-19 mới khi các nền kinh tế tái khởi động sau khoảng thời gian dài đóng cửa.
Kể từ cuối tháng 5, với dữ liệu kinh tế tốt hơn mong đợi và các nền kinh tế bắt đầu mở cửa trở lại, USD Index đã giảm 3,5% so với các đồng tiền chủ chốt khác. Tuy nhiên, các tiền tệ an toàn đã được hỗ trợ sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa ra một bức tranh tương lai đầy ảm đạm. Cụ thể, vào ngày 10/6, Fed tuyên bố về kế hoạch nhiều năm nhằm hỗ trợ mạnh mẽ nước Mỹ sau khi các nhà hoạch định chính sách dự báo nền kinh tế quốc gia này sẽ suy yếu 6,5% trong năm 2020, với tỉ lệ thất nghiệp ở mức 9,3%. Bên cạnh đó, Reuters báo cáo số lượng các ca nhiễm COVID-19 mới ở Mỹ đang tăng nhẹ sau 5 tuần giảm. Một phần lí do của sự gia tăng này là số lượng xét nghiệm nhiều hơn, với mức cao kỉ lục vào ngày 5/6 là 545.690 xét nghiệm trong một ngày.
Trước tình hình trên, các loại tiền tệ liên quan nhiều đến tăng trưởng toàn cầu như đồng đô la Úc và crown Na Uy giảm hơn 1% so với đồng bạc xanh, trong khi tỷ giá USD so với franc Thuy Sĩ giảm xuống còn 0,9412 franc đổi một USD, theo tin tổng hợp từ Reuters.