Riêng tháng 7/2025 ước đạt 3,01 triệu tấn, tương đương 116,32 triệu USD, giá trung bình 38,6 USD/tấn, tăng 11,9% về lượng, tăng 8,4% kim ngạch nhưng giảm 3,2% về giá so với tháng 6/2025; còn so với tháng 7/2024 cũng tăng 20,2% về lượng, tăng 19,8% kim ngạch nhưng giảm 0,4% về giá.
Xi măng, clinker xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Philippines chiếm gần 20% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 3,87 triệu tấn, tương đương trên 147,36 triệu USD, giá trung bình 38,1 USD/tấn, giảm 16,5% về lượng, giảm 21,1% về kim ngạch và giảm 5,5% về giá so với 7 tháng đầu năm 2024. Riêng tháng 7/2025 xuất khẩu sang Philippines 400.851 tấn xi măng, clinker, tương đương 16,34 triệu USD, giá 40,8 USD/tấn, tăng 11% về lượng, tăng 15% về kim ngạch và tăng 3,7% về giá so với tháng 6/2025; so với tháng 7/2024 thì giảm 7% về lượng, giảm 3,8% về kim ngạch nhưng tăng 3,4% về giá.
Đứng thứ 2 là thị trường Bangladesh đạt 3,53 triệu tấn xi măng, clinker, thu về 115,79 triệu USD, giá 32,8 USD/tấn, giảm 9,7% về lượng và giảm 6,6% về kim ngạch nhưng tăng 3,4% về giá so với cùng kỳ năm 2024; xuất sang thị trường Đài Loan 851.273 tấn, tương đương 31,84 triệu USD, giá 37,4 USD/tấn, giảm 4,5% về lượng, giảm 0,9% về kim ngạch, nhưng tăng 3,7% về giá; xuất khẩu sang Malaysia 853.078 tấn, tương đương 30,17 triệu USD, giảm 0,2% về lượng nhưng tăng 4% về kim ngạch và tăng 4,2% về giá so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu xi măng, clinker 7 tháng đầu năm 2025
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 10/8/2025 của CHQ)