(Vinanet) Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 2/2013, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường quan trọng tại châu Phi  có sự chững lại hoặc giảm sút so với cùng kỳ năm trước. 4 thị trường vẫn duy trì được mức tăng trưởng xuất khẩu là Nam Phi, An-giê-ri, Nigeria và Angola trong khi 4 thị trường có kim ngạch xuất khẩu giảm là Ai Cập, Bờ Biển Ngà, Ghana và Xê-nê-gan. 

Các mặt hàng xuất khẩu chính sang thị trường khu vực này vẫn là điện thoại và linh kiện, gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, phương tiện vận tải và phụ tùng, máy móc thiết bị và sản phẩm dệt may. 

Nam Phi tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tại châu Phi với kim ngạch đạt 96,64 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chính gồm điện thoại và linh kiện đạt 51,49 triệu USD, giày dép các loại 13,01 triệu USD, sản phẩm hóa chất 6,19 triệu USD, hàng dệt may 3,21 triệu USD, gạo 2,84 triệu USD, máy vi tính, sản phẩm và linh kiện 2,68 triệu USD, cà phê 1,82 triệu USD… Như vậy mặt hàng điện thoại và linh kiện tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong khi nhóm hàng vàng bạc đá quý không còn xuất hiện trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu sang Nam Phi.

Mặt hàng gạo xuất khẩu sang Nam Phi tuy kim ngạch không cao 2,84 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ năm ngoái thì đạt mức tăng trưởng vượt bậc tới 2.966% về kim ngạch; bên cạnh đó, nhóm hàng điện thoại và sản phẩm hóa chất cũng đạt mức tăng mạnh với mức tăng lần lượt là 237% và 683% so với cùng kỳ. Ngược lại mặt hàng máy vi tính sụt giảm mạnh nhất 72,58% và các mặt hàng như cà phê, giấy, máy móc thiết bị đều sụt giảm trên 50% kim ngạch.

Những nhóm hàng xuất khẩu sang Nam Phi 2 tháng đầu năm 2013

ĐVT: USD

 

 

Mặt hàng

 

Tháng 2/2013

 

2T/2013

% tăng, giảm KN T2/2013 so với T2/2012

% tăng, giảm KN 2T/2013 so với cùng kỳ

Tổng cộng

33.803.207

96.636.410

-26,89

+24,26

Điện thoại các loại và linh kiện

17.152.721

51.490.459

+130,47

+236,98

Giày dép

4.859.853

13.006.739

+0,85

+34,47

Sản phẩm hoá chất

1.673.079

6.185.547

+197,85

+683,32

Hàng dệt may

1.027.106

3.207.984

-23,17

-2,23

Gạo

2.489.625

2.842.450

+4.832,88

+2.965,96

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

1.172.103

2.684.448

-73,50

-72,58

Hạt tiêu

972.660

1.824.860

+31,68

+59,85

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

336.900

1.477.248

-51,50

-51,63

Cà phê

0

1.436.111

*

-57,88

Sản phẩm từ sắt thép

336.051

808.393

-39,62

-38,42

Gỗ và sản phẩm gỗ

249.538

799.049

+17,52

+17,25

Phương tiện vận tải và phụ tùng

329.683

750.005

+20,79

+22,25

Hạt điều

346.505

707.892

-61,21

-45,36

Giấy và sản phẩm từ giấy

0

29.231

*

-59,19

 

Thị trường Angeri: Với kim ngạch xuất khẩu đạt 35,22 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2012, Angeri đã vươn lên thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam tại châu Phi. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chính gồm cà phê, kim ngạch đạt 12,36 triệu USD, gạo 7,17 triệu USD. 

Ai Cập: Trong tháng 2, xuất khẩu sang Ai Cập giảm mạnh, tổng kim ngạch cả hai tháng chỉ đạt 33,89 triệu USD, giảm 40,35% so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng thủy sản đạt 8,1 triệu USD, hạt tiêu 5,35 triệu USD, xơ, sợi dệt các loại 5,32 triệu USD, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 2,7 triệu USD, cà phê 2,1 triệu USD... Trừ dệt may, sắt thép và hạt tiêu đạt mức tăng trưởng dương về kim ngạch so với cùng kỳ, còn lại kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác đều sụt giảm.

Những nhóm hàng xuất khẩu sang Ai Cập 2 tháng đầu năm 2013

ĐVT: USD

 

 

Mặt hàng

 

 

Tháng 2/2013

 

 

2T/2013

% tăng, giảm KN T2/2013 so với T2/2012

% tăng, giảm KN 2T/2013 so với cùng kỳ

Tổng cộng

10.416.043

33.890.042

-73,47

-40,35

Thủy sản

1.729.627

8.099.839

-64,87

-0,71

Hạt tiêu

1.551.015

5.347.496

-55,92

+14,97

Xơ sợi dệt cac loại

2.248.711

5.324.022

-54,03

-29,23

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

763.952

2.700.606

-93,07

-76,40

Cà phê

651.974

2.123.528

-83,63

-62,44

Phương tiện vận tải và phụ tùng

773.004

1.779.866

-44,98

-42,56

Hàng dệt may

340.562

1.503.155

-11,04

+201,23

Sắt thép

0

81.178

*

+28,78

 

Angola: Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Angola đạt 16,48 triệu USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm ngoái trong đó mặt hàng gạo đạt 10,3 triệu USD (+100%), hàng dệt may 1,6 triệu USD (+60%).

Nigeria: Xuất khẩu sang Nigeria đạt 16 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2012 trong đó máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 9,4 triệu USD (+27%), hàng dệt may 1,3 triệu USD (+5%), phương tiện vận tải và phụ tùng 1,2 triệu USD (-14%).

Ghana: Kim ngạch xuất khẩu sang Ghana chỉ đạt 13,21 triệu USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm trước trong đó gạo chiếm 6,8 triệu USD (-35%).

Bờ Biển Ngà: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Bờ Biển Ngà đạt 4,8 triệu USD, giảm tới 59% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu gạo chỉ đạt 1,68 triệu USD (-83%).

Kim ngạch xuất khẩu sang Senegal tiếp tục giảm sút chỉ đạt 4,38 triệu USD (-74%) trong đó gạo chiếm 1,6 triệu USD (-87%).

Có thể thấy xuất khẩu gạo, mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang một số thị trường lớn là Bờ Biển Ngà, Ghana và Senegal đang gặp nhiều khó khăn. Tại châu Phi, gạo Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của gạo giá rẻ Ấn Độ và Thái Lan (chủ yếu là gạo tồn kho). Nếu giá bán gạo Việt Nam bằng với giá gạo Ấn Độ thì cũng khó cạnh tranh vì khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và châu Phi xa hơn, dẫn đến chi phí vận chuyển cao hơn. Nhằm giành lại thị trường và ngôi vị xuất khẩu gạo số 1 thế giới, Thái Lan vừa thông báo đẩy mạnh việc bán gạo tồn kho và có thể áp dụng các biện pháp linh hoạt như hạ giá xuất khẩu, bán trả chậm, đổi hàng… điều này có nguy cơ dẫn đến tình trạng phá giá gạo. Trong tháng 1/2013, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam đã giảm 20% so với cùng kỳ năm trước. Mặt khác, lượng gạo dự trữ của châu Phi từ năm ngoái vẫn còn tương đối lớn nên nhu cầu mua gạo giảm và việc nhập khẩu sẽ chậm hơn nhất là những tháng đầu năm.

Nguồn: Vinanet