Để đạt mục tiêu năm 2013 xuất khẩu đạt khoảng 126,1 tỷ USD (tăng 10% so với năm 2012) trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn này, việc tận dụng những ưu đãi thuế quan thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và các nước, được coi là một trong những “chìa khóa” hữu hiệu giúp doanh nghiệp tiếp tục gia tăng xuất khẩu vào nhiều thị trường.

Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu sang một số nước có FTA đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận, trong đó khu vực ASEAN tăng trưởng khoảng 27,2%; Nhật Bản tăng 39%, Hàn Quốc tăng 18%, nên tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 53,5 tỷ USD. Dự kiến, sau khi kết thúc phiên đàm phán TPP (hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) và đàm phán FTA với EU thì dung lượng thị trường FTA sẽ lớn hơn rất nhiều, chiếm đến khoảng 86% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Thời gian qua, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được những ưu thế của FTA. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chưa cập nhật đầy đủ về cam kết cắt giảm thuế quan hàng năm của các đối tác trong các FTA với Việt Nam như Nhật Bản, Ốtxtrâylia, Hàn Quốc. Các doanh nghiệp chưa nắm bắt được các thông tin về hàng rào kỹ thuật và các biện pháp kiểm dịch động thực vật. Doanh nghiệp chưa nghiên cứu cụ thể về quy tắc xuất xứ, mức cắt giảm thuế quan trước khi lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất khẩu. Điều này dẫn đến những rủi ro có thể phát sinh khi xuất khẩu.

Hiện Bộ Công Thương đã xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tăng cường quản lý chứng nhận xuất xứ. Theo đề án này, Bộ Công Thương sẽ chủ trì, phối hợp với các đơn vị tập trung vào các giải pháp, xây dựng và đẩy nhanh việc thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển và thủ tục đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ, nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, đáp ứng được tiêu chí hàm lượng nội địa hóa và xuất xứ hàng hóa. Mặt khác, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp C/O (chứng nhận xuất xứ) thông qua việc tăng cường cấp C/O điện tử. Bên cạnh đó, Bộ sẽ nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận xuất xứ điện tử, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đồng thời có kế hoạch triển khai việc trao đổi xuất xứ điện tử cho một số đối tác lớn trong khu vực. Đặc biệt là nghiên cứu đề án tự chứng nhận xuất xứ theo hướng cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho mình và duy trì việc phổ biến chứng nhận xuất xứ. Bên cạnh việc tuyên truyền, một số giải pháp hành chính thiết thực khác đã và đang được triển khai như rút ngắn thời gian cấp C/O cho hàng hóa từ 3 ngày xuống còn 4 - 8 tiếng trong ngày, cũng hỗ trợ tích cực cho hoạt động xuất khẩu./.

(TTXVN)

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam