(VINANET)- Dù môi trường kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng những năm qua, trao đổi thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển. Việt Nam có mức tăng trưởng nhanh và xây dựng một nền kinh tế đa dạng.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, bất chấp khủng hoảng kinh tế, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước tiếp tục tăng 15% so với cùng kỳ năm 2011, đạt gần 2,9 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Đức đạt 1,922 tỷ USD.
Trong 8 tháng đầu năm 2012 Việt Nam đã xuất khẩu 2,6 tỷ USD hàng hóa sang Đức, giảm 21,37% so với cùng kỳ năm trước, tính riêng tháng 8, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Đức đạt 384,4 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Đức là điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, cà phê, giày dép các loại, hàng thủy sản…với kim ngạch đạt lần lượt 686,6 triệu USD; 369,5 triệu USD; 330,7 triệu USD; 259 triệu USD; 129,1 triệu USD…
Theo Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Liên Bang Đức tại Việt Nam, thách thức mà Việt Nam đang đối mặt chính là việc bước lên một nấc thang mới để trở thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình cao hơn nữa. Đại sứ tin rằng, giáo dục là chìa khóa cho thành công trong tương lai. Giống như Đức, Việt Nam đang đối mặt với vấn đề toàn cầu hóa và thay đổi liên tục, có ảnh hưởng đến môi trường làm việc của chúng ta. Đức là mảnh đất của những ý tưởng. Nền giáo dục của Đức tạo ra rất nhiều cơ hội học tập cho tất cả mọi người. Đồng thời, Đức cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc thích nghi với những nhu cầu mới của toàn cầu hóa.
Trong một năm kể từ ngày Việt Nam và CHLB Đức chính thức trở thành đối tác chiến lược (Tháng 10/2011), mỗi quan hệ Việt Nam – Đức đã phát triển mạnh mẽ và tích cực trên tất cả các mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - đầu tư. Đức liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong liên minh châu Âu (EU).
Tính đến cuối tháng 8/2012, đã có 184 dự án đầu tư của Đức tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký 904 triệu USD.
Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang Đức 8 tháng 2012
ĐVT: USD
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
điện thoại các loại và linh kiện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
|
|
|
|
|
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
túi xách, ví, vali, mũ và ô dù
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
phương tiện vận tải và phụ tùng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
sản phẩm mây, tre, cói thảm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
|
|
|
|
|
giấy và các sản phẩm từ giấy
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Theo Bộ Công Thương, tiêu thụ năng lượng của Việt Nam ngày càng gia tăng, gấp gần 5 lần trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 (từ mức 4,21 triệu tấn dầu quy đổi lên 19,55 triệu tấn), với mức tăng trung bình mỗi năm là 11,7%. Dự kiến, Việt Nam sẽ nhập khẩu năng lượng từ năm 2015.
Đối phó với nguy cơ thiếu hụt nguồn điện trong những năm tới, bên cạnh phát triển điện hạt nhân. Việt Nam đang hướng tới các nguồn năng lượng tái tạo, chủ yếu là năng lượng gió và mặt trời. Tuy nhiên, việc khai thác thị trường năng lượng tái tạo đang gặp phải những thách thức về công nghệ, chính sách và nếu không có sự góp sức từ nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam rất khó hoàn thành mục tiêu đến năm 2015, năng lượng tái tạo chiếm 3% tổng công suất điện thương mại và đạt 5% vào năm 2020.
Trong thực tế, việc khai thác tiềm năng về năng lượng thì tái tạo tại Việt Nam từ lâu đã được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, trong đó đáng chú ý là nhà đầu tư đến từ Đức. Đó là liên doanh giữa Công ty Năng lượng gió Fuhrlaender AG (Đức) và Công ty cổ phần Năng lượng tái tạo Việt Nam (REVN). Liên doanh này đang đầu tư xây dựng những tua-bin gió đầu tiên tại Bình Thuận, mỗi tua-bi có công suất phát điện 1,5 MW và là những tua-bin gió hiện đại nhất ở Việt Nam.
Theo Hiệp hội Hợp tá quốc tế Đức tại Việt Nam (GIZ), việc phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại. Chẳng hạn, Việt Nam chưa có luật về năng lượng tái tạo, với những quy định cụ thể nhằm thu hút vốn đầu tư. Giá mua điện tái tạo hiện nay khoảng 7,8 cent/kWh là khá thấp, khiến hầu hết các dự án năng lượng tái tạo không khả thi, làm nản lòng nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên năng lượng tái tạo còn gặp nhiều khó khăn do sự xung đột trong việc sử dụng đất. Ví dụ, Dự án điện gió ở Ninh Thuân, Bình Thuận bị chậm trễ do thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan chức năng địa phương và chương trinh của Chính phủ, kế hoạch khai thác năng lượng điện gió trùng lắp với dự án khai thác titan.