Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô tăng sau bình luận của Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia Khalid al-Falih.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,28% lên 56,79 USD/ thùng; dầu Brent Biển Bắc tăng 1,28% lên 66,58 USD/ thùng.
Bộ trưởng Khalid al-Falih mới đây cho biết các nước sản xuất dầu chủ chốt trên thế giới nhiều khả năng sẽ chưa chấm dứt việc cắt giảm nguồn cung trước tháng 6/2019. Đồng thời, ông cũng cho rằng vẫn còn quá sớm để thay đổi thỏa thuận kiềm chế sản lượng đã đạt được giữa Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, trong đó có Nga.
Cơ quan năng lượng Mỹ thông báo số giàn khoan của Mỹ đã giảm 9 giàn xuống 834. Thông tin này cũng hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, đại diện các nước sản xuất dầu trong và ngoài OPEC sẽ nhóm họp vào hai ngày 17-18/4/2019 và tiếp tục một cuộc họp khác vào các ngày 25-26/6/2019 để thảo luận về chính sách sản lượng và vấn đề nguồn cung.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay cho thị trường Nhật Bản trung bình trong tháng 2/2019 đã giảm xuống mức thấp nhất 18 tháng, chỉ còn 7,59 USD/mmBtu (triệu đơn vị nhiệt Anh), mức thấp nhất kể từ tháng 9/2017.
Giá LNG giao ngay tại Châu Á đã giảm liên tiếp trong 11 tuần qua, và tính từ đầu năm 2019 tới nay đã sụt trên 30% bởi dự báo thời tiết mùa Đông năm nay ấm hơn bình thường trong khi nguồn cung dồi dào. Giá LNG giao ngay cập cảng Nhật Bản trong tháng 2/2019 là 8,30 USD/mmBtu, thấp nhất kể từ tháng 5/2018.
Giá than cốc trên thị trường Trung Quốc giảm phiên thứ 5 liên tiếp, có lúc xuống 1.965 CNY (3,8%), trước khi chốt phiên ở 1.966,5 CNY; than luyện cốc cũng giảm 2,3% xuống 1.226 CNY/tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do thị trường chứng khoán phục hồi trước số liệu khả quan về kinh tế Mỹ. Đồng USD mạnh lên cũng cản trở giá vàng tăng.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.292,21 USD/ounce, vàng giao sau giảm 0,6% xuống 1.291,10 USD/ounce.
Số liệu thống kê cho thấy doanh số bán lẻ tại Mỹ tăng cao hơn dự kiến (tăng 0,2% trong tháng 1/2019, trong khi các nhà kinh tế dự đoán là không thay đổi) đã giúp xoa dịu những lo ngại về khả năng nền kinh tế lớn nhất thế giới tăng trưởng chậm lại.
Cuối tuần qua, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Jerome Powell, nhấn mạnh sẽ theo sát những tác động từ việc kinh tế thế giới giảm tốc để đưa ra quyết định về chính sách lãi suất của Mỹ.
Chiến lược gia Bart Melek của Công ty TD Securities ở Toronto cho biết: "Bước sang năm 2019 bắt đầu nhận thấy một số yếu tố cơ bản (trên toàn cầu) yếu đi do tác động từ việc Mỹ tăng lãi suất liên tiếp trong năm 2018. Chẳng hạn như hiệu quả của chính sách giảm thuế của Tổng thống Donald Trump không được như mong đợi".
Các nhà kinh tế lưu ý lãi suất cao hơn sẽ làm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với các nhà đầu tư. Nhà quản lý Walter Pehowich, thuộc Dillon Gage Metals, nhận định các nhà đầu tư phần lớn vẫn quan tâm đến thị trường chứng khoán và quay lưng lại với tài sản an toàn như vàng trong thời điểm hiện nay.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,1% xuống 15,29 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,2% lên 816,25 USD/ounce, sau khi trong phiên có lúc rơi xuống 803,50 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 19/2/2019.
Các nhà đầu tư trên thị trường vàng đang hướng sự chú ý vào cuộc bỏ phiếu về Brexit tại Quốc hội Anh sẽ diễn ra trong ngày 12/3/2019.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá sắt thép tại Trung Quốc đều giảm do chính sách hạn chế sản xuất thép để giảm ô nhiễm. Quặng sắt trên sàn Đại Liên có lúc giảm 3,6% xuống 594,5 CNY (88,42 USD)/tấn, thấp nhất kể từ 27/2/2019, và kết thúc phiên ở 598 CNY. Do nhu cầu quặng sắt yếu trong cả tháng 2/2019, lưu kho tại các cảng Trung Quốc tiếp tục tăng, ngày 11/3/2019 đạt trên 147 triệu tấn – mức cao nhất kể từ tháng 9 năm ngoái.
Trong khi, thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 1,6% xuống 3.723 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 0,6% xuống 3.692 CNYtấn.
Đến cuối tháng 3 này, Chính phủ Trung Quốc sẽ đánh giá hiệu quả nỗ lực hạn chế ô nhiễm không khí trong mùa đông của lãnh đạo 28 thành phố Trung Quốc, bao gồm cả "vương quốc thép" Đường Sơn.
Theo Mysteel, đến ngày 4/3/2019, đã có 27 nhà máy thép khắp Trung Quốc thông báo đang hoặc chuẩn bị đóng cửa để bảo trì cơ sở vật chất. Thời gian bảo trì dự kiến kéo dài từ 1 tuần tới 90 ngày. Theo dự báo của thị trường, tăng trưởng nguồn cung thép thành phẩm ra thị trường Trung Quốc sẽ chậm lại trong tháng 3/2019.
Mới đây, chính quyền tỉnh Hà Bắc, khu vực sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc, vừa ra thông báo sẽ giảm 14 triệu tấn thép mỗi năm trong giai đoạn 2019 – 2020 để cải thiện chất lượng không khí. Đến cuối năm 2020, tổng lượng thép bị cắt giảm của Hà Bắc sẽ tương đương sản lượng thép của nước sản xuất lớn thứ hai thế giới, Ấn Độ, theo dự đoán của một quan chức Hà Bắc khác. Trong năm 2018, sản lượng thép thô của tỉnh Hà Bắc đạt khoảng 237 triệu tấn, tăng 50 triệu tấn kể từ năm 2014 và chiếm hơn 1/4 tổng nguồn cung thép của Trung Quốc.
Trong khi đó, theo dự đoán của chuyên gia phân tích Richard Lu tại công ty CRU, hoạt động xây dựng tại Trung Quốc sẽ sôi động trở lại từ cuối tháng 3, thường là cao điểm về nhu cầu tiêu thụ thép, nên giá thép có thể phục hồi mạnh mẽ hơn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giá giảm 2,7% xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1/2018 do lượng tồn trữ còn nhiều cho phép khách hàng quốc tế có nhiều sự lựa chọn. Tất cả các hợp đồng lúa mì đỏ mềm vụ Đông, đỏ cứng vụ Đông và lúa mì vụ Xuân đều giảm xuống mức thấp mới. Lúa mì đỏ mềm vụ Đông giao tháng 5 trên sàn Chicago giảm 11 US cent xuống 4,28-1/2 USD/bushel.
Tuy nhiên, tại Nga, sau mấy tuần giảm, giá lúa mì xuất khẩu trong tuần qua ổn định bởi nguồn cung trong nước không nhiều. Lúa mì Biển Đen của Nga (loại 12,5% protein (giao vào cuối tháng 3-đầu tháng 4/2019) là 226 USD/tấn, FOB. Lúa mì loại 3 bán trên thị trường nội địa có giá giảm 75 rouble xuống 12.000 rouble (182 USD)/tấn. Ở mức giá này, người có hàng giữ hàng lại không bán ra.
Đậu tương cũng giảm giá bởi ít hy vọng về thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhà trắng cho biết vẫn chưa có lịch cho cuộc gặp gỡ tiếp theo giữa 2 nước về vấn đề này.
Kết thúc phiên vừa qua, đậu tương giao tháng 5 trên sàn Chicago giảm 5-3/4 US cent xuống 8,9 USD/bushel, tiếp tục ở mức thấp nhất kể từ 28/12/2018.
Giá cà phê tiếp tục chịu áp lực bởi nguồn cung dồi dào trên toàn cầu, nhất là tại Brazil. Cà phê arabica giao tháng 5/2019 giảm 1,3 US cent tương đương 1,3% xuống 97,20 USD cent/lb vào cuối phiên, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn tăng 2 USD tương đương 0,1% lên 1.532 USD/tấn.
Giá đường thô giao tháng 5 trên sàn New York tăng 0,11 US cent tương đương 0,9% lên 12,29 UScent/lb bởi giá dầu tăng có thể khích lệ các nhà máy chế biến mía ở Brazil tăng tỷ lệ sản xuất ethanol. Đướng trắng trên sàn London cũng tăng 2 USD tương đương 0,6% lên 340,5 USD/tấn.
Trong mấy tuần qua, giá đường thô có xu hướng tăng. Các nhà sản xuất đường đang bán ở mức giá khoảng 12 đến 13 US cent. Tuy nhiên, cách đây 2 phiên (ngày 7/3/2019), đường thô đã chạm mức thấp nhất 2 tháng là 12,08 UScent.
Brazil đang mong muốn có được thỏa thuận về hạn ngạch đường miễn thuế với Mỹ, giống như hạn ngạch ethanol miễn thuế.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) trong báo cáo tháng 3/2019 dự báo sản lượng đường Mỹ niên vụ 2018-2019 đạt mức 1,66 triệu tấn, giảm 127 nghìn tấn (7%) so với dự báo tháng 2 và giảm 340 nghìn tấn (17%) so với mức hơn 2 nghìn tấn trong năm 2018. Tỉ lệ sử dụng cổ phiếu khi kết thúc niên vụ 2018 - 2019 được dự báo ở mức 13,55%, giảm 14,6% so với dự báo tháng 2 và giảm 16,1% so với niên vụ 2017 - 2018. Trong niên vụ 2018 - 2019, dự báo sản lượng đường củ cải tăng lên sẽ bù đắp cho sự sụt giảm nhẹ trong sản xuất đường mía. Đồng thời, nhập khẩu từ Mexico giảm mạnh hơn bù đắp cho mức tăng chậm lại của nhập khẩu ở mức cao (từ 45.000 tấn lên tới 55.000 tấn trong tháng 2). Nhập khẩu đường được dự báo đạt mức 2,8 triệu tấn, giảm 214 nghìn tấn (7%) so với dự báo tháng Hai và giảm 13% so với gần 3,3 triệu tấn trong niên vụ 2017 - 2018. Hạn ngạch thuế quan và các chính sách nhập khẩu khác không thay đổi so với tháng trước. Nhập khẩu từ Mexico đã giảm 20% từ tháng 2 xuống 896.692 tấn, giảm 27% so với 1,2 triệu tấn trong niên vụ 2017 - 2018. Tổng nguồn cung đường niên vụ 2018 - 2019 được dự báo đạt gần 14 triệu tấn, giảm 127 nghìn tấn, tương đương 0,9% so với dự báo từ tháng Hai và giảm 472 nghìn tấn, tương đương 3,3% từ mức 14,4 triệu tấn trong năm ngoái.
USDA dự báo sản lượng đường Mexico nên vụ 2018 - 2019 đạt mức 6.152 nghìn tấn, tăng 2,1% so với dự báo tháng trước và tăng 2,4% so với năm ngoái. Nhập khẩu không thay đổi ở mức 70 nghìn tấn nhưng giảm 66% so với niên vụ trước.
Xuất khẩu được dự báo đạt mức 1,1 triệu tấn, giảm 13% nhưng tăng nhẹ so với niên vụ 2017 - 2018. Nhu cầu tiêu thụ trong nước của Mỹ dự báo vượt 5 triệu tấn, tăng 4,1% so với tháng trước và tăng 8% so với năm ngoái. Các kho dự trữ cuối năm nay được dự báo ở mức 1,4 triệu tấn, tăng tương ứng 7% và 1,8%.
Hiệp hội các nhà sản xuất đường Ấn Độ (ISMA) dự báo sản lượng đường nước này niên vụ
2018/19 có thể giảm xuống khoảng 30 triệu tấn, từ mức cao kỉ lục 32,3 triệu tấn trong niên vụ 2017/18 do lượng mưa giảm, sâu trắng và bệnh thối đỏ thân mía ở các bang sản xuất mía chính là Uttar Pradesh và Maharashtra của Ấn Độ. Tuy nhiên, mức đó vẫn cao hơn so với tiêu thụ của nước này (26 triệu tấn).

Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,87

+0,08

+0,14%

Dầu Brent

USD/thùng

66,58

+0,84

+1,28%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

45.220,00

+440,00

+0,98%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

+0,01

+0,22%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

182,84

+0,24

+0,13%

Dầu đốt

US cent/gallon

199,65

+0,23

+0,12%

Dầu khí

USD/tấn

611,00

+8,00

+1,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

60.930,00

+480,00

+0,79%

Vàng New York

USD/ounce

1.293,30

+2,20

+0,17%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.613,00

-14,00

-0,30%

Bạc New York

USD/ounce

15,33

+0,06

+0,37%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,40

-0,30

-0,55%

Bạch kim

USD/ounce

820,34

+2,04

+0,25%

Palađi

USD/ounce

1.539,46

+2,79

+0,18%

Đồng New York

US cent/lb

290,95

+0,85

+0,29%

Đồng LME

USD/tấn

6.395,00

-28,50

-0,44%

Nhôm LME

USD/tấn

1.872,00

+8,00

+0,43%

Kẽm LME

USD/tấn

2.711,00

-24,00

-0,88%

Thiếc LME

USD/tấn

21.375,00

-100,00

-0,47%

Ngô

US cent/bushel

362,00

-2,25

-0,62%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

428,50

-11,00

-2,50%

Lúa mạch

US cent/bushel

262,50

-1,00

-0,38%

Gạo thô

USD/cwt

10,72

-0,10

-0,97%

Đậu tương

US cent/bushel

890,00

-5,75

-0,64%

Khô đậu tương

USD/tấn

301,30

-2,40

-0,79%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,64

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

455,80

-1,50

-0,33%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.202,00

+4,00

+0,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,20

-1,30

-1,32%

Đường thô

US cent/lb

12,29

+0,11

+0,90%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

118,95

+2,80

+2,41%

Bông

US cent/lb

73,20

-0,29

-0,39%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

411,80

+15,00

+3,78%

Cao su TOCOM

JPY/kg

198,00

+0,80

+0,41%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

-0,01

-0,46%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters, CafeF

Nguồn: Vinanet