Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh sau tuyên bố bất ngờ của Tổng thống Trump. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 4,55 USD (6,99%) xuống 60,50 USD/thùng, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 13/6 là 60,02 USD/thùng. Đây là phiên giảm nhiều nhất kể từ tháng 2/2016. Trong khi đó, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 4,63 USD (7,9%) xuống 53,95 USD/thùng sau khi có lúc rơi xuống 53,59 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 19/6/2019. Loại dầu này cũng ghi nhận mức giảm phần trăm lớn nhất tính theo ngày kể từ tháng 2/2015. Hơn 836.000 hợp đồng đã sang tay, vượt xa mức trung bình - khoảng 623.000 thùng.
Giá dầu vốn đang đà suy yếu trước những thông báo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong ngày 1/8/2019. Việc Fed hạ lãi suất cơ bản 0,25 điểm phần trăm từ biên độ 2,25-2,5% xuống 2-2,25% không nằm ngoài dự đoán, song tâm lý của các nhà đầu tư và các nhà giao dịch đã trở nên bi quan hơn sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell nói rằng động thái này không phải là sự khởi đầu cho những đợt hạ lãi suất tiếp theo.
Sản lượng dầu Mỹ hiện vẫn ở gần mức kỷ lục, trên 12 triệu thùng/ngày, và Mỹ vẫn đang là nước sản xuất nhiều dầu nhất thế giới. Sản lượng tại Texas, bang sản xuất dầu thô lớn nhất của Mỹ, đã tăng khoảng 16.000 thùng/ngày lên 4,97 triệu thùng/ngày trong tháng 5/2019.
Về thông tin liên quan, các nhà giao dịch cho biết lượng dầu dự trữ tại Cushing, Oklahoma, trung tâm vận chuyển chính của dầu Mỹ, đã giảm khoảng 1,5 triệu thùng từ ngày 26-30/7/2019.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) trên thị trường Châu Á lần đầu tiên trong vòng nhiều năm giảm xuống mức dưới 4 USD/mmBtu do có nhiều nguồn cung mới bổ sung giữa bối cảnh thị trường vốn đang dư thừa mà nhu cầu từ Bắc Á lại yếu. Lần gần đây nhất LNG giao dịch dưới 4 USD cách đây khoảng 3 – 4 năm.
Theo dữ liệu của Eikon, cách đây một năm giá LNG tại Châu Á đạt 10 USD/mmBtu, sau khi chạm mức cao nhất 4 năm vào tháng 6/2018. Sau đó giá liên tục giảm bởi mùa Đông năm ngoái không lạnh và nguồn cung năm nay gia tăng.
Tại Châu Âu, giá LNG tuần này ở mức 3,4 USD/mmBtu, thấp hơn cả mức giá tham chiếu (hợp đồng kỳ hạn 1 tháng).
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng gần 2% sau thông báo áp thuế mới của ông Trump bởi động thái này đã làm khơi lại tình hình căng thẳng thương mại giữa hai nước đồng thời kéo đồng USD rời khỏi mức cao nhất hai năm.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1,9% lên 1.440,02 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng gần 1% lên 1.450,90 USD/ounce, mặc dù đầu phiên có lúc giá xuống chỉ 1.400,31 USD/ounce khi đồng bạc xanh tăng mạnh lên mức cao nhất so với rổ tiền tệ chính kể từ tháng 5/2017.
Theo kết quả khảo sát của hãng tin Reuters ngày 1/8/2019, lãi suất thấp, việc các ngân hàng và nhà đầu tư nối lại hoạt động mua vào vàng sẽ giúp giá kim loại quý này củng cố mức tăng gần đây và duy trì ở trên ngưỡng 1.400 USD/ounce trong năm 2020. Bên cạnh đó, giới đầu tư và các nhà giao dịch đang chờ đợi báo cáo về số liệu việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ, dự kiến công bố trong ngày 2/8/2019.
Đối với những kim loại quý khác, giá palađi giảm 6,3% xuống 1.420,53 USD/ounce. Trước đó, kim loại quý này đã rơi xuống mức thấp nhất 7 tuần là 1.410 USD/ounce. Giá bạch kim giảm 1% xuống 851,09 USD/ounce, trong khi bạc hạ 0,1% xuống 16,24 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm chạm mức thấp nhất trong khoảng một tháng do lo ngại nhu cầu tiêu thụ yếu đi sau khi hãng sản xuất thép lớn nhất thế giới hạ dự báo về nhu cầu trên toàn cầu và số liệu của Trung Quốc cho thấy hoạt động của các nhà máy nước này giảm tốc. ArcelorMittal vừa hạ dự báo về tăng trưởng nhu cầu thép toàn cầu xuống 0,5%-1,5%, từ mức 1%-1,5% dự báo trước đây.
Trên sàn London, hợp đồng giao dịch nhôm kỳ hạn 3 tháng giảm 1,1% xuống 1.780 USD/tấn, thấp nhất kể từ 3/7/2019. Đồng cùng kỳ hạn có lúc cũng chạm mức thấp nhất kể từ 10/7/2019, là 5.867 USD/tấn, trước khi kết thúc phiên ở mức giảm 0,5% còn 5.899 USD/tấn.
Giá thép trên thị trường Trung Quốc giảm do dự báo tồn trữ tại đây sẽ tăng lên trong khi nhu cầu trong nước vẫn yếu.
Kết thúc phiên giao dịch vừa qua, thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 1,6% xuống 3.846 CNY (557,64 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng cũng giảm 0,9% xuống 3.781 CNY/tấn –là mức thấp nhất kể từ 21/6/2019 đối với cả 2 hợp đồng này.
Tồn trữ thép tại Trung Quốc tới 36/7/2019 đạt 12,6 triệu tấn, cao nhất trong vòng 3 tháng và tăng 27% so với một năm trước đó.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương vừa kết thúc một phiên giảm ở mức thấp nhất trong vòng hơn một tháng sau quyết định tăng thuế của ông Trump. Trên sàn Chicago, giá đậu tương đã giảm 16-1/4 US cent, tương đương 1,7%, xuống 8,65-1/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ 11/6/2019.
Giá ngô cũng giảm trong phiên vừa qua, mất 7-1/2 US cent tương đương 1,7% xuống 4,02-1/2 USD/bushel; lúa mì giảm 11-1/2 US cent tương đương 1,6% xuống 4,75-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 0,09 US cent tương đương 0,7% xuống 12,12 US cent/lb, trong khi đường trắng tăng 1,6 USD tương đương 0,5% lên 325,6 USD/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn New York chạm mức thấp nhất 6 tuần do đồng real Brazil yếu đi. Hợp đồng arabica kỳ hạn tháng 9/2019 giảm 2,4 US cent tương đương 2,4% xuống 97,25 US cent/lb vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức 96,40 US cent,thấp nhất kể từ 19/6/2019. Robusta trên sàn London cũng giảm trong phiên vừa qua, cụ thể giảm 31 USD tương đương 2,3% xuống 1.307 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá cà phê tuần này tăng do nguồn cung không còn nhiều. Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 34.600 đồng (1,49 USD0/kg, tăng so với 33.000 đồng tuần trước. Trong khi đó, các thương nhân chào bán robusta loại 5% đen, vỡ (loại 2) với giá cộng 130 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 ở phiên liền trước trên sàn London.
Tuy nhiên, các thương gia cho rằng giá cà phê Việt Nam sẽ không tăng thêm nữa vì sắp đến vụ thu hoạch mới (tháng 10/2019).
Tại Lumpung (Indonesia), cà phê robusta được chào giá cộng 150 – 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 của phiên liền trước trên sàn London, tăng so với mức cộng 150 USD/tấn cách đây một tuần.
Giá bông trên sàn New York giảm mạnh trong phiên vừa qua ngay sau quyết định tăng thuế của Tổng thống Mỹ. Hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 đã giảm 1,13 US cent tương đương 1,77% vào cuối phiên, xuống 62,71 US cent/lb, sau khi có lúc xuống chỉ 62,50 US cent, thấp nhất kể từ 19/7/2019.
Tính từ đầu năm tới nay, giá bông đã mất khoảng 15% do cuộc chiến thương mại giữa Mỹ - một trong những nước sản xuất bông lớn nhất thế giới - với Trung Quốc -thị trường tiêu thụ bông hàng đầu thế giới.
Giá cao su tại Tokyo vẫn tiếp tục giảm phiên thứ 5 liên tiếp, xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 7/2019, do lo ngại nhu cầu tại Trung Quốc sẽ yếu đi trong khi nguồn cung tại Châu Á dồi dào.
Cuối phiên giao dịch, hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM giảm 1,7 JPY tương đương 1% xuống 175,3 JPY (1,61 USD)/kg; đầu phiên có lúc giá chỉ 174,3 JPY, thấp nhất kể từ 16/7/2019.
Giá cao su tại Singapore và Trung Quốc cũng giảm. Hợp đồng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Singapore giảm 2,8% xuống 132,4 US cent/kg, thấp nhất kể từ 12/2/2019; trong khi đó hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 105 CNY xuống 10.565 CNY (1.531 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,95

-4,63

-7,9%

Dầu Brent

USD/thùng

60,50

-4,55

-6,99%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.920,00

-2.820,00

-6,92%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,18

-0,02

-1,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

176,06

+1,07

+0,61%

Dầu đốt

US cent/gallon

187,15

+1,86

+1,00%

Dầu khí

USD/tấn

586,25

-15,50

-2,58%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.810,00

-2.720,00

-4,65%

Vàng New York

USD/ounce

1.451,40

+19,00

+1,33%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.966,00

+42,00

+0,85%

Bạc New York

USD/ounce

16,33

+0,15

+0,93%

Bạc TOCOM

JPY/g

56,30

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

853,44

-0,58

-0,07%

Palađi

USD/ounce

1.437,76

+7,10

+0,50%

Đồng New York

US cent/lb

260,50

-6,05

-2,27%

Đồng LME

USD/tấn

5.899,00

-28,00

-0,47%

Nhôm LME

USD/tấn

1.780,00

-19,00

-1,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.404,00

-40,00

-1,64%

Thiếc LME

USD/tấn

17.325,00

+10,00

+0,06%

Ngô

US cent/bushel

402,50

-7,50

-1,83%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

475,75

-11,50

-2,36%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,25

+1,50

+0,57%

Gạo thô

USD/cwt

11,95

+0,01

+0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

865,25

-16,25

-1,84%

Khô đậu tương

USD/tấn

299,70

-5,70

-1,87%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,16

-0,07

-0,25%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

442,00

-1,50

-0,34%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.329,00

-16,00

-0,68%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,25

-2,40

-2,41%

Đường thô

US cent/lb

12,12

-0,09

-0,74%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,70

-2,75

-2,66%

Bông

US cent/lb

62,37

-1,47

-2,30%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

362,90

+19,00

+5,52%

Cao su TOCOM

JPY/kg

172,50

-2,80

-1,60%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

-0,01

-0,82%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters