Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khoảng 1% do giảm kỳ vọng vào gói kích thích kinh tế mới của Mỹ giữa bối cảnh số ca nhiễm Covid-19 vẫn gia tăng trên toàn cầu.
Cuối phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn London giảm 49 US cent (tương đương 1,1%) xuống 44,50 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) trên sàn New York giảm 33 US cent (0,8%) xuống 41,61 USD/thùng.
Một số nhà đầu tư trên thị trường dầu đã tranh thủ bán ra chốt lời trước khi Mỹ công bố số liệu chính thức về dự trữ dầu hàng tuần (trong ngày 12/8). Trong khi đó, theo Viện Dầu mỏ Mỹ, tồn trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 4 triệu thùng trong tuần qua, cao hơn mức dự báo giảm 2,9 triệu thùng của giới phân tích.
Tại Mỹ, các nghị sỹ của hai đảng Cộng hòa và Dân chủ trong ngày 11/8 chưa nhất trí các đề xuất của nhau về gói kích thích kinh tế mới. Theo ông Gary Cunningham, Giám đốc nghiên cứu thị trường của Tradition Energy, hiện có sự “băn khoăn” về triển vọng Mỹ thông qua gói kích thích mới cũng như thông tin về việc Nga đã điều chế thành công vắc-xin phòng ngừa COVID-19.
Về cuộc chiến chống dịch Covid-19, Tổng thống Nga President Vladimir Putin tuyên bố Nga đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới điều chế thành công và đăng ký lưu hành vắc-xin phòng COVID-19. Tuy vậy, việc đăng ký lưu hành này khiến một số chuyên gia y tế quan ngại khi cho rằng vắc-xin phòng chống COVID-19 của Nga vẫn còn phải trải qua các thử nghiệm cuối cùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giam mạnh nhất trong vòng hơn 7 năm do giới đầu tư quay lại với những tài sản rủi ro cao sau khi khi đón nhận các số liệu kinh tế đáng khích lệ và những kỳ vọng về gói kích thích mới đẩy chỉ số chứng khoán S&P lên các mức cao kỷ lục mới.
Khép phiên 11/8, giá vàng giao ngay mất 5,2% xuống 1.921,5 USD/ounce, giảm mạnh từ mức cao kỷ lục 2.072,5 USD/ounce ghi nhận trong phiên cuối tuần trước, là phiên giảm giá mạnh nhất kể từ tháng 6/2013; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 4,6% xuống 1.946,3 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên vừa qua có thời điểm giảm tới 13,8% - mức giảm theo ngày lớn nhất kể từ tháng 10/2008; kết thúc phiên ở mức giảm 13,4% xuống 25,24 USD/ounce; bạch kim giảm 4,7% xuống còn 940,08 USD/ounce, trong khi giá palađi giảm 4,7% xuống 2.116,33 USD/ounce.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao tại OANDA, nhận định số liệu kinh tế tốt hơn dự kiến đã giúp thúc đẩy hoạt động bán tháo, song triển vọng đối với giá vàng vẫn lạc quan. Giá sản xuất tại Mỹ đã phục hồi nhiều hơn dự kiến trong tháng 7/2020, trong khi chỉ số S&P đang tiến gần hơn đến các mức cao kỷ lục.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư lo ngại về căng thẳng Mỹ - Trung và tác động kinh tế của đại dịch Covid-19.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 6.386,5 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng trong ngày 7/8/2020 và tăng trở lại 1,4% trong phiên trước đó.
Tuy nhiên, tính đến nay giá đồng tăng 45% kể từ mức thấp nhất 4 năm (4.371 USD/tấn) trong tháng 3/2020.
Giá nhôm trên sàn London giảm 0,1% xuống 1.786 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.792,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 24/1/2020.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng, rời khỏi chuỗi giảm 2 phiên liên tiếp, bởi tồn trữ quặng sắt tại các cảng giảm và nhu cầu tại các lĩnh vực hạ nguồn tăng. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 2,3% lên 834 CNY (119,89 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch giá quặng sắt tăng 4,5% lên 852 CNY/tấn.
Tồn trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc tính đến tuần kết thúc ngày 7/8/2020 giảm tuần thứ 2 liên tiếp xuống 116,15 triệu tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Đối với mặt hàng thép, trên sàn Thượng Hải giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 0,7% xuống 3.795 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng giảm 0,5% xuống 3.872 CNY/tấn. Giá thép không gỉ giảm 1,9% xuống 13.975 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tại Mỹ tăng, do tác động của cơn bão ảnh hưởng đến năng suất cây trồng tại khu vực trung tây Mỹ, làm lu mờ dự kiến vụ thu hoạch bội thu.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 1/2 US cent lên 3,23-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất 1 tuần (3,27-1/2 USD/bushel). Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1/4 US cent lên 8,73-3/2 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2020 tăng 4 US cent lên 4,95 USD/bushel.
Giá đường tăng do lo ngại nguồn cung tại Thái Lan – nước xuất khẩu đường lớn thứ hai thế giới sau Brazil – giảm và dấu hiệu nhu cầu tại châu Á hồi phục. Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE tăng 0,19 US cent tương đương 1,5% lên 12,74 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất (13 US cent/lb) kể từ ngày 6/3/2020 trong ngày 7/8/2020.Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,3 USD tương đương 0,4% lên 371,9 USD/tấn.
Mối lo ngại về hạn hán tại Thái Lan và các dấu hiệu nhu cầu tại châu Á cải thiện đã hỗ trợ giá đường. Thái Lan dự kiến sẽ sản xuất ít đường hơn trong niên vụ 2020/21 sau khi sản lượng chạm mức thấp nhất 1 thập kỷ trong niên vụ này, Cơ quan mía đường Thái Lan cho biết. Đồng thời, đồng real Brazil suy yếu cũng thúc đẩy giá đường tăng.
Giá cà phê giảm do đồng real Brazil suy yếu và vụ thu hoạch tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – bội thu. Cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn ICE giảm 1,7 US cent tương đương 1,5% xuống 1,136 USD/lb, giảm phiên thứ 4 liên tiếp kể từ mức cao nhất 4,5 tháng trong ngày 5/8/2020; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London giảm 20 USD tương đương 1,5% xuống 1.337 USD/tấn.
Giá cao su tại Osaka giảm lần đầu tiên trong 6 phiên, khi con số chính thức cho thấy tác động của đại dịch Covid-19 đối với nền kinh tế Nhật Bản và nhu cầu hàng hóa suy giảm.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn OSE giảm 3,3 JPY tương đương 1,9% xuống 174,4 JPY/kg; giá cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 90 CNY xuống 12.365 CNY/tấn.
Nhật Bản ghi nhận thặng dư tài khoản vãng lai chạm mức thấp nhất trong hơn 5 năm, do xuất khẩu suy giảm khi nhu cầu nước ngoài bị ảnh hưởng nặng nề bởi virus corona bùng phát.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/8/2020
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
41,81
|
+0,20
|
+0,48%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
44,76
|
+0,26
|
+0,58%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.220,00
|
-80,00
|
-0,26%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,15
|
-0,02
|
-1,15%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
121,26
|
+0,81
|
+0,67%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
124,41
|
+0,57
|
+0,46%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
372,75
|
-3,25
|
-0,86%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
44.590,00
|
-30,00
|
-0,07%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.924,00
|
-22,30
|
-1,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.577,00
|
-264,00
|
-3,86%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,19
|
-0,86
|
-3,32%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
86,30
|
-9,70
|
-10,10%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
926,13
|
-5,12
|
-0,55%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.088,61
|
-6,63
|
-0,32%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
283,45
|
-4,10
|
-1,43%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.386,00
|
-10,50
|
-0,16%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.786,00
|
0,00
|
0,00%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.410,00
|
+13,00
|
+0,54%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.690,00
|
-26,00
|
-0,15%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
323,25
|
-0,25
|
-0,08%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
493,00
|
-2,00
|
-0,40%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
254,50
|
-0,50
|
-0,20%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,66
|
-0,02
|
-0,17%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
871,75
|
-1,75
|
-0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
289,30
|
-0,20
|
-0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,34
|
-0,17
|
-0,56%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
484,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.448,00
|
-40,00
|
-1,61%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
113,60
|
-1,70
|
-1,47%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,74
|
+0,19
|
+1,51%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
114,60
|
+2,10
|
+1,87%
|
Bông
|
US cent/lb
|
63,28
|
-0,21
|
-0,33%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
681,50
|
+19,00
|
+2,87%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
172,00
|
-2,40
|
-1,38%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,22
|
+0,04
|
+3,14%
|