Trên thị trường
năng lượng, giá dầu tăng 2% do số liệu lạm phát của Mỹ chậm lại thúc đẩy hy vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tiến gần tới việc kết thúc chu kỳ tăng lãi suất và giảm bớt tác động của tồn kho dầu thô của Mỹ tăng nhẹ.
Kết thúc phiên 12/4, dầu thô Brent tăng 1,72 USD hay 2,01% lên 87,33 USD/thùng trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,73 USD hay 2,1% lên 83,26 USD.
Fawad Razaqzada, nhà phân tích thị trường thuộc công ty môi giới StoneX, nhận định chỉ số CPI của Mỹ yếu hơn đã làm dấy lên nghi vấn về việc liệu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có tăng lãi suất vào tháng tới hay không. Đồn đoán lãi suất giảm đang giúp xoa dịu mối lo ngại về suy thoái kinh tế và đồng thời hỗ trợ giá các tài sản định giá bằng đồng USD như dầu.
Trái phiếu chính phủ, một thước đo chứng khoán toàn cầu và vàng tăng trong khi USD giảm mạnh sau số liệu này. USD yếu khiến giá dầu rẻ hơn khi mua bằng ngoại tệ khác.
Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch của BOK Financial, cho biết quỹ phòng hộ đã mua dầu kỳ hạn trên thị trường trong vài ngày qua với dự đoán nhu cầu sẽ cải thiện.
Cố vấn kinh tế hàng đầu của Tổng thống Mỹ Joe Biden đồng thời là cựu phó chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, Lael Brainard, cũng cho biết bà nhận thấy lạm phát đang giảm xuống.
Các thị trường không quan tâm tới dự trữ dầu thô của Mỹ tăng nhẹ, một phần là do việc giải phóng dầu mỏ bắt buộc theo quy định của Quốc hội từ kho dự trữ khẩn cấp của Mỹ và xuất khẩu giảm vào đầu tháng này.
Dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước tăng 597.000 thùng lên 470,5 triệu thùng, so với dự đoán của giới phân tích trong một thăm dò của Reuters là giảm 600.000 thùng; dự trữ xăng giảm 300.000 thùng, trong khi dự trữ sản phẩm chưng cất, gồm dầu diesel và dầu đốt, giảm 0,6 triệu thùng. Cả hai loại này đều giảm ít hơn so với dự kiến.
Báo cáo của Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho thấy dự trữ dầu thô tăng khoảng 380.000 thùng trong tuần trước, trong khi dự trữ xăng cũng tăng.
Bên cạnh đó, Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) Fatih Birol lưu ý thị trường dầu mỏ toàn cầu có thể chứng kiến tình trạng khan hiếm vào nửa cuối năm 2023 và điều này sẽ đẩy giá dầu lên cao hơn.
Trong khi đó, theo ông Fatih Birol, giám đốc điều hành của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, thị trường dầu toàn cầu có thể khan hiếm trong nửa cuối năm 2023, có thể đẩy giá dầu tăng.
Một yếu tố tiêu cực về nhu cầu dầu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã giảm triển vọng tăng trưởng toàn cầu năm 2023, do ảnh hưởng của lãi suất cao.
Hiện thị trường dầu thế giới cũng đang chờ đợi thông tin rõ ràng về cung - cầu dầu mỏ, với các báo cáo hàng tháng từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và IEA sẽ được công bố trong tuần này, lần lượt vào thứ Năm và thứ Sáu.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ đã giảm dự báo sản lượng dầu của các nước OPEC 0,5 triệu thùng/ngày trong những tháng còn lại của năm nay, giảm 40.000 thùng/ngày trong tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ thế giới năm 2023.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do những dấu hiệu cho thấy lạm phát đang hạ nhiệt làm gia tăng dự đoán rằng rằng Fed có thể tạm dừng thắt chặt chính sách tiền tệ sau tháng 5.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 2.014,39 USD/ounce sau khi tăng khoảng 1,3% trước đó; vàng giao sau tăng 0,3% lên 2.024,9 USD. Giá bạc phiên này tăng 1,5% lên 25,45 USD/ounce, bạch kim tăng 2,5% lên 1.019,22 USD và palladium tăng 1,6% lên 1.469,52 USD.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của công ty dịch vụ tài chính OANDA, nhận định Fed sẽ tăng lãi suất 1/4 điểm. Mặc dù vàng được coi là một công cụ hữu hiệu để chống lại lạm phát, song môi trường lãi suất cao hơn lại làm giảm đến sức hấp dẫn của kim loại này.
Giá vàng thường tăng khi USD và lợi suất trái phiếu của Mỹ giảm. Các thị trường hiện nay định giá 62% cơ hội Fed tăng lãi suất 25 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 5, tiếp theo là đặt cược 2 - 1 cho việc Fed sẽ tạm dừng lãi suất trong tháng 6.
Theo biên bản cuộc họp của Fed vào tháng trước, một số quan chức đã xem xét tạm dừng tăng lãi suất do lo ngại căng thẳng tài chính gia tăng sau sự cố của một số ngân hàng khu vực tại Mỹ gần đây, song họ kết luận rằng đối phó với lạm phát cao vẫn là ưu tiên hàng đầu của ngân hàng này.
Alexander Zumpfe, một nhà giao dịch của công ty nghiên cứu thị trường Heraeus, cho rằng việc Fed có giảm tốc độ tăng lãi suất hay không phần lớn phụ thuộc vào các chỉ số kinh tế, chẳng hạn như khả năng suy giảm trên thị trường việc làm tại Mỹ.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do số liệu lạm phát của Mỹ thấp hơn dự kiến cho thấy lãi suất có thể không cần tăng mạnh mẽ hơn nữa. Số liệu lạm phát đã hỗ trợ các thị trường chứng khoán và làm suy yếu USD, khiến các kim loại rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Lo ngại về nguồn cung khi dự trữ tại sàn giao dịch LME giảm xuống 56.800 tấn, thấp nhất kể từ năm 2005 cũng hỗ trợ giá đồng tăng. Tuy nhiên, giá chỉ tăng vừa phải do vẫn còn đó những lo lắng về tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn LME tăng 1% lên 8.942,5 USD/tấn. Giá đồng đã giảm từ mức cao nhất 7 tháng tại 9.550,5 USD/tấn hồi tháng 1 do lãi suất tăng bóp nghẹt hoạt động kinh tế và tình trạng bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng lan rộng.
Nhà phân tích độc lập Robin Bhar cho biết: “Triển vọng (thị trường đồng) khá khó khăn. "Chúng ta có thể chứng kiến tăng trưởng kinh tế rất chậm trong thập kỷ tới và chúng ta vẫn chưa biết hậu quả của cuộc khủng hoảng ngân hàng."
Giá tiêu dùng của Mỹ hầu như không tăng trong tháng trước nhưng giá thuê cao liên tục khiến lạm phát cơ bản âm ỉ, có khả năng đảm bảo ít nhất một lần tăng lãi suất nữa trong tháng Năm.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo rằng các lỗ hổng hệ thống tài chính đang rình rập có thể bùng phát thành một cuộc khủng hoảng mới.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 1,2% lên 2.329,50 USD/tấn, kẽm tăng 1,3% lên 2.794 USD, niken tăng 0,5% lên 23.590 USD, chì tăng 2,2% lên 2.132 USD và thiếc tăng 1,7% lên 24.125 USD.
Giá sắt thép biến động trái chiều trong phiên vừa qua. Theo đó, giá quặng sắt tại Đại Liên tăng do tăng trưởng cho vay của Trung Quốc mạnh mẽ trong quý 1 củng cố hy vọng phục hồi kinh tế tại nhà sản xuất thép lớn nhất thế giới này, mặc dù các nhà đầu tư vẫn cảnh giác với tăng trưởng và rủi ro pháp lý.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,3% lên 788 CNY (114,42 USD)/tấn. Trái lại, quặng sắt giao tháng 5 trên sàn Singapore giảm 1,5% xuống 117,9 USD/tấn. Giá thép thanh trên sàn Thượng Hải giảm 0,1%, thép cuộn cán nóng gần như ổn định, trong khi thép không gỉ tăng 2%.
Hoạt động cho vay mới của ngân hàng Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục trong quý 1, trong khi tăng trưởng tín dụng nhanh chóng khi ngân hàng trung ương tiếp tục hỗ trợ chính sách cho nền kinh tế này sau khi dỡ bỏ các hạn chế nghiêm ngặt về Covid-19.
Số liệu hoạt động kinh tế và GDP quý 1 của Trung Quốc công bố vào ngày 18/4 sẽ cung cấp một bức tranh rõ ràng hơn. Các nhà đầu tư cũng lưu tâm tới rủi ro pháp lý sau khi chính quyền Trung Quốc liên tục cảnh báo chống lại việc đầu cơ giá quặng sắt quá mức.
Mặc dù nhu cầu mờ nhạt, sản lượng thép thô hàng ngày của Trung Quốc tăng 29.600 tấn hay 1% trong 10 ngày đầu tháng 4 so với cuối tháng 3, đạt trung bình 3,08 triệu tấn, cao nhất kể từ giữa tháng 6/2021, theo số liệu khảo sát 247 nhà máy của công ty tư vấn Mysteel.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc Mỹ tăng vào cuối phiên sau một ngày biến động trái chiều bởi những chỉ trích mới của Nga về thỏa thuận cho phép Ukraine xuất khẩu ngũ cốc từ các cảng Biển Đen. Các nước thuộc Liên minh Đông Âu gần Ukraine đã kêu gọi các biện pháp hạn chế dòng ngũ cốc giá rẻ từ Ukraine vào thị trường của họ. Giá đậu tương và ngô tăng một phần do thị trường hồi phục sau khi giảm lúc đầu phiên trong bối cảnh vụ thu hoạch đậu tương bội thu tại Brazil.
Kết thúc phiên, giá lúa mì trên sàn Chicago tăng 5-1/2 US cent lên 6,79-1/2 USD/bushel; giá đậu tương tăng 7 US cent lên 15,04-1/4 USD/bushel; trong khi ngô tăng 5 US cent lên 6,56 USD/bushel.
Sản lượng đậu tương ở Argentina sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong 23 năm và sản lượng ngô xuống mức thấp nhất trong 5 năm do hạn hán, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết hôm thứ Ba khi cơ quan này cắt giảm mạnh dự báo về mùa màng của Argentina. Nhưng USDA đã nâng triển vọng vụ đậu tương của Brazil lên một kỷ lục mới, đồng thời giữ nguyên dự báo về sản lượng ngô của nước này tăng trong mùa này.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 0,32 US cent hay 1,3% xuống 24,05 US cent/lb sau khi đạt đỉnh 24,85 US cent, cao nhất kể từ tháng 4/2012; đường trắng kỳ hạn tháng 5 giảm 8,6 USD hay 1,2% xuống 693,90 USD/tấn cũng thiết lập mức cao nhất 11 năm tại 706,9 USD/tấn.
Nguồn cung bị thắt chặt bởi dự đoán sản lượng niên vụ 2022/23 của Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan thấp hơn dự kiến cùng với những lo ngại về hiện tượng thời tiết El Nino ảnh hưởng tới sản lượng niên vụ 2023/24 tại các nhà sản xuất Châu Á. El Nino có thể khiến thời tiết khô hơn bình thường tại các khu vực nói trên và hạn chế sản lượng đường.
Các đại lý cho biết thị trường hiện phụ thuộc nhiều vào nguồn cung từ nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới - Brazil, nước có vụ ép mía cuối tháng 3 cao hơn so với năm trước, mặc dù thấp hơn ước tính.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 9 USD hay 0,4% lên 2.332 USD/tấn sau khi đạt cao nhất 7,5 tháng tại 2.335 USD/tấn; cà phê arabica cùng kỳ hạn thay đổi ít tại 1,885 USD/lb.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng do mùa đông gây áp lực lên giá, nhưng dự báo kinh tế toàn cầu ảm đạm đã làm giảm tâm lý nhà đầu tư.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1,8 JPY hay 0,9% lên 206,8 JPY (1,55 USD)/kg; cao su giao tháng 9 trên sàn Thượng Hải tăng 55 CNY lên 11.735 CNY (1.703,93 USD)/tấn; cao su giao tháng 5 trên nền tảng SICOM của Singapore Exchange kết thúc ở mức 133,9 US cent/kg, giảm 0,1%.
Các thương nhân nhận định giá cao su có thể tăng khi các nhà đầu tư quay trở lại thị trường này, được hỗ trợ bởi yếu tố mùa đông đẩy giá tăng từ tháng 3 tới tháng 5 (so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, đà tăng giá vẫn bị ảnh hưởng bởi nhu cầu yếu.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
83,28
|
+0,02
|
+0,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
87,35
|
+0,02
|
+0,02%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
70.550,00
|
+820,00
|
+1,18%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,08
|
-0,01
|
-0,67%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
285,45
|
-1,82
|
-0,63%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
269,89
|
-0,42
|
-0,16%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
771,00
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
2.031,50
|
+6,60
|
+0,33%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.614,00
|
-43,00
|
-0,50%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,65
|
+0,19
|
+0,75%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
105,20
|
+0,60
|
+0,57%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.021,81
|
+1,40
|
+0,14%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.470,37
|
-2,91
|
-0,20%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
406,95
|
-1,15
|
-0,28%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.916,50
|
+62,00
|
+0,70%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.325,00
|
+22,50
|
+0,98%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.785,00
|
+27,50
|
+1,00%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
24.022,00
|
+289,00
|
+1,22%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
628,75
|
+1,00
|
+0,16%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
684,00
|
-3,00
|
-0,44%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
334,00
|
-1,75
|
-0,52%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,58
|
+0,03
|
+0,17%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.512,25
|
+8,00
|
+0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
461,40
|
+4,00
|
+0,87%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
53,86
|
-0,30
|
-0,55%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
739,10
|
-3,00
|
-0,40%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.866,00
|
-37,00
|
-1,27%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
188,50
|
+0,05
|
+0,03%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,34
|
-0,34
|
-1,44%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
278,10
|
-6,80
|
-2,39%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,51
|
+0,12
|
+0,15%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
387,50
|
+2,30
|
+0,60%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
134,30
|
-0,10
|
-0,07%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|