Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Phó Thủ tướng Nga, Alexander Novak hạ thấp khả năng OPEC+ sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng tại cuộc họp vào tuần tới.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent giảm 2,1 USD, tương đương 2,7%, xuống 76,25 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,51 USD, tương đương 3,4%, xuống 71,83 USD/thùng. Trong phiên có lúc cả hai loại dầu đều giảm hơn 3 USD/thùng.
Giá dầu bắt đầu giảm sau khi ông Novak nói: "Tôi không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ bước đi mới nào, bởi vì chỉ một tháng trước, một số quyết định đã được đưa ra liên quan đến việc một số quốc gia tự nguyện giảm sản lượng dầu...".
Trong những ngày gần đây, các nhà sản xuất hàng đầu của OPEC+ đã đưa ra một loạt thông điệp trái ngược nhau về các động thái chính sách dầu mỏ tiếp theo, gây khó khăn cho việc dự đoán kết quả của cuộc họp tiếp theo.
Hôm thứ Ba, giá dầu được hỗ trợ khi bộ trưởng năng lượng của Saudi Arabia cảnh báo những người bán khống đặt cược giá dầu sẽ giảm nên "coi chừng" tổn thất.
Một số nhà đầu tư coi đó là tín hiệu cho thấy OPEC+, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh bao gồm Nga, có thể xem xét cắt giảm sản lượng hơn nữa tại cuộc họp vào ngày 4/6.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Bây giờ các nhà sản xuất OPEC+ đang trải qua 'ouch'.
Chỉ một tuần trước bình luận của Hoàng tử Abdulaziz, Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rằng việc cắt giảm sản lượng dầu là cần thiết để duy trì một mức giá nhất định.
Đà giảm giá đã được hạn chế sau đó trong phiên bởi sự lạc quan rằng Tổng thống Mỹ Joe Biden và đảng Cộng hòa hàng đầu của Quốc hội Kevin McCarthy đã gần đạt được một thỏa thuận cắt giảm chi tiêu và tăng trần nợ 31,4 nghìn tỷ đô la của chính phủ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng do lạc quan về các cuộc đàm phán về trần nợ của Mỹ, làm giảm nhu cầu đối với vàng thỏi như rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục tăng lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.941,85 USD/ounce – thấp nhất kể từ ngày 22/3/3023; vàng kỳ hạn tháng 6/2023 giảm 1,1% xuống 1.943,7 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay giảm 1,4% xuống mức thấp nhất 2 tháng là 22,75 USD/ounce; bạch kim giảm 0,2% xuống 1.021,68 USD, trong khi palladium tăng 0,1% lên 1.416,39 USD.
Tổng thống Mỹ Joe Biden và nghị sĩ hàng đầu của Đảng Cộng hòa Kevin McCarthy dường như sắp đạt được thỏa thuận cắt giảm chi tiêu và nâng trần nợ.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của OANDA, cho biết: “Đó là một ‘cú đấm’ có một không hai đối với vàng… nếu một thỏa thuận được thực hiện vào cuối tuần, thì điều đó sẽ loại bỏ rủi ro lớn nhất khỏi bàn”.
Vàng kéo dài đà giảm sau khi dữ liệu chính thức cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới của Mỹ tăng vừa phải vào tuần trước, cho thấy sức mạnh thị trường lao động bền bỉ và điều chỉnh tăng mức tăng trưởng GDP ước tính trong quý trước.
Moya nói thêm: “Một vòng dữ liệu kinh tế khá ấn tượng cho thấy nền kinh tế này vẫn đang thể hiện rất nhiều khả năng phục hồi… lập luận về việc có thể đưa ra một đợt tăng lãi suất khác đang trở nên sôi nổi ở đây”.
Các thương nhân đã xem xét thước đo lạm phát được Fed ủng hộ, chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi, sẽ đáo hạn vào thứ Sáu.
Theo công cụ CME FedWatch, các thị trường hiện định giá 50-50 khả năng Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 6 tới, và cho rằng các đợt cắt giảm lãi suất sẽ không sớm hơn tháng 9.
Vàng, một tài sản không sinh lãi, có xu hướng mất đi sức hấp dẫn trong môi trường lãi suất cao.
Đồng USD đã tăng lên mức cao nhất kể từ giữa tháng 3, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lợi tức trái phiếu kho bạc gần chạm mức cao như đã đạt được vào ngày 13 tháng 3.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7/2020 do nhu cầu đối với kim loại dùng để mạ thép giảm, đẩy thị trường vào tình trạng dư thừa và tồn kho tăng.
Giá đã giảm 35% so với mức cao hồi tháng 1 do sự phục hồi kinh tế ở Trung Quốc, nước tiêu thụ kẽm lớn nhất thế giới, có vẻ yếu hơn dự kiến và lãi suất tăng làm chậm lại tốc độ tăng trưởng ở những nơi khác.
Tồn trữ kẽm trên Sàn giao dịch London tăng 18.050 tấn, đưa tổng dự trữ trên sàn LME lên mức cao nhất trong 8 tháng, là 63.450 tấn.
Giá kẽm trên sàn London (LME) kết thúc phiên giảm 2,6% xuống 2.253,5 USD/tấn, đầu phiên giá giảm xuống mức thấp 2.215 USD/tấn. Tính từ đầu tuần đến nay, giá kẽm giảm 9%.
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Kẽm rất dễ tiếp xúc với thị trường xây dựng (và) hoạt động xây dựng đang kém hiệu quả ở nhiều nơi.
Nhu cầu thép của Trung Quốc trong mùa xây dựng cao điểm vào mùa xuân thấp hơn kỳ vọng và hoạt động xây dựng thường chậm lại vào mùa hè. Nhà phân tích Tom Mulqueen của Citi cho biết trong một ghi chú hồi đầu tháng này: “Nhu cầu kẽm vật chất khó có thể xảy ra trong những tháng tới”.
Giá thiếc trên sàn London tăng 2,4% lên 24.535 USD/tấn sau khi Hiệp hội Thiếc Quốc tế cho biết một kế hoạch chi tiết về việc tạm dừng khai thác tại một khu vực của Myanmar do lực lượng dân quân người Wa kiểm soát đã được công bố trong tháng này, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung.
Giá đồng phiên này tăng 0,5% lên 7.943,50 USD, nhôm tăng 0,6% lên 2.218 USD, chì tăng 0,8% lên 2.065 USD và niken tăng 2,2% lên 21.195 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á giảm, với quặng sắt trên sàn Đại Liên chạm mức thấp nhất gần 6 tháng, do dự kiến nhu cầu nguyên liệu sản xuất thép ở Trung Quốc sẽ chạm trong mùa hè – mùa xây dựng chậm lại.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 2,2% xuống 681 CNY (98,52 USD)/tấn, sau khi chạm 674 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 2/12/2022 – lúc đầu phiên giao dịch. Quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 95,25 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tuần (94,7 USD/tấn) lúc đầu phiên giao dịch. Tính từ đầu năm đến nay, giá quặng sắt tại Singapore đã giảm hơn 15%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 2,5%, thép cuộn cán nóng giảm 1,8%, thép cuộn giảm 3%, trong khi thép không gỉ tăng 1,6%.
Thời tiết nóng và mưa trong suốt mùa hè Trung Quốc, kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8, thường làm chậm hoạt động xây dựng và hạn chế nhu cầu thép.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương và ngũ cốc trên sàn Chicago giảm do đồng USD tăng mạnh làm gia tăng mối lo ngại về nhu cầu xuất khẩu giảm.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 4 US cent xuống 5,16 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 3-1/2 US cent lên 5,9-3/4 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 1/2 US cent xuống 13,24 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 13,05 USD/bushel; lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 2 US cent xuống 6,04-1/4 USD/bushel.
USDA báo cáo doanh số xuất khẩu ròng trong tuần kết thúc vào ngày 18 tháng 5 giảm 75.200 tấn đối với ngô vụ cũ của Mỹ (so với tuấn trước đó). Tổng doanh số bán ngô vụ mới chỉ đạt 52.100 tấn, gần mức thấp so với kỳ vọng của các nhà phân tích; foanh số xuất khẩu đậu tương Mỹ vụ cũ là 115.000 tấn, ở mức thấp so với kỳ vọng thương mại. Đối với lúa mì Mỹ, USDA đã báo cáo doanh số xuất khẩu của vụ cũ giảm 45.100 tấn, tổng doanh số bán lúa mì vụ mới đạt 245.100 tấn, thấp hơn kỳ vọng.
Giá đường thô trên sàn ICE chạm mức thấp nhất 3 tuần do sản lượng đường tại nước sản xuất hàng đầu thế giới (Brazil) tăng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 0,66 US cent tương đương 2,6% xuống 24,83 US cent/lb, trong phiên có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 5/2023 (24,61 US cent/lb); đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 11 USD tương đương 1,6% xuống 697 USD/tấn.
Số liệu từ tập đoàn công nghiệp UNICA cho biết sản lượng đường tại khu vực trung nam Brazil đạt 2,53 triệu tấn trong nửa đầu tháng 5/2023, tăng 50% so với cùng kỳ năm ngoái,cao hơn đáng kể so với ước tính lạc quan từ các nhà phân tích được khảo sát bởi S&P Global Commodity Insights.
Nhà sản xuất đường lớn nhất châu Âu, Suedzucker, xác nhận dự báo lợi nhuận tăng mạnh do giá đường cao được duy trì. Một cơ quan nhà nước Syria đã mở thầu quốc tế để mua và nhập khẩu khoảng 25.000 tấn đường thô, các thương nhân châu Âu cho biết.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn New York giảm 5,3 US cent, tương đương 2,8%, xuống 1,827 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 20 USD, tương đương 0,8%, xuống 2.553 USD/tấn. Trong phiên 24/5/2023, giá cà phê robusta đạt mức cao nhất 15 năm (2.675 USD/tấn).
Bộ Nông nghiệp Mỹ dự đoán sản lượng tại nhà sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam giảm xuống 29,75 triệu bao trong niên vụ 2022/23, giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái. Dự kiến sản lượng sẽ phục hồi 5% trong niên vụ 2023/24 lên 31,3 triệu bao.
Nông dân Việt Nam cho biết họ dự kiến sản lượng cà phê robusta niên vụ 2022/23 sẽ giảm 10%-15%, trong khi các nhà xuất khẩu lo ngại không có đủ cà phê để giao trong nửa cuối năm nay.
Các chuyên gia cho biết, hiện tượng thời tiết El Nino, dự kiến sẽ phát triển trên toàn cầu vào nửa cuối năm nay, gây rủi ro lớn hơn cho cà phê robusta so với arabica.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản kết thúc chuỗi giảm 3 phiên liên tiếp, được thúc đẩy bởi thị trường chứng khoán nội địa khởi sắc, mặc dù nhu cầu tại Trung Quốc suy yếu hạn chế đà tăng.
Kết thúc phiên, cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Osaka tăng 0,5 JPY tương đương 0,2% lên 207 JPY (1,53 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 145 CNY xuống 11.750 CNY (1.699,92 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 132,5 US cent/kg.
Sản xuất ô tô trong nước của Toyota, nhà sản xuất ô tô lớn nhất Nhật Bản, có thể lần đầu tiên vượt quá 3 triệu chiếc sau 4 năm vào năm tài chính 23/24, Nikkei đưa tin. Hoạt động sản xuất của Nhật Bản mở rộng lần đầu tiên trong bảy tháng vào tháng Năm, trong khi lĩnh vực dịch vụ đạt mức tăng trưởng kỷ lục, một cuộc khảo sát cho thấy hôm thứ Ba.
Tâm lý kinh doanh tại các nhà sản xuất lớn của Nhật Bản lần đầu tiên trong năm nay chuyển biến tích cực và tinh thần của khu vực dịch vụ đạt mức cao nhất trong 5 tháng, cuộc thăm dò Tankan của Reuters cho thấy.
Sản lượng cao su có thể bị ảnh hưởng ở nước xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới - Thái Lan - khi gió mùa Tây Nam đến gần.
Giá hàng hóa thế giới: 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,61

-0,22

-0,31%

Dầu Brent

USD/thùng

75,83

-0,43

-0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.360,00

-1.650,00

-2,46%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,28

-0,03

-1,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

266,87

-0,48

-0,18%

Dầu đốt

US cent/gallon

233,47

-1,15

-0,49%

Dầu khí

USD/tấn

677,50

-1,75

-0,26%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.965,40

+3,10

+0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.736,00

-23,00

-0,26%

Bạc New York

USD/ounce

22,96

+0,05

+0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g

102,50

-0,60

-0,58%

Bạch kim

USD/ounce

1.031,45

+5,93

+0,58%

Palađi

USD/ounce

1.426,48

+4,72

+0,33%

Đồng New York

US cent/lb

359,20

+0,40

+0,11%

Đồng LME

USD/tấn

7.962,50

+61,00

+0,77%

Nhôm LME

USD/tấn

2.231,00

+26,00

+1,18%

Kẽm LME

USD/tấn

2.272,00

-41,00

-1,77%

Thiếc LME

USD/tấn

24.607,00

+642,00

+2,68%

Ngô

US cent/bushel

590,75

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

606,50

+2,25

+0,37%

Lúa mạch

US cent/bushel

336,00

+6,25

+1,90%

Gạo thô

USD/cwt

14,67

-0,09

-0,64%

Đậu tương

US cent/bushel

1.326,75

+2,75

+0,21%

Khô đậu tương

USD/tấn

398,10

+0,90

+0,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

48,67

+0,15

+0,31%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

653,10

-1,90

-0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.017,00

+7,00

+0,23%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

182,70

-5,30

-2,82%

Đường thô

US cent/lb

24,83

-0,66

-2,59%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

290,50

-3,40

-1,16%

Bông

US cent/lb

78,87

+0,37

+0,47%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

130,30

-0,30

-0,23%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)